Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

HỒI TƯỞNG VỀ CỐ TRUNG TÁ NGUYỄN VĂN LONG - BẢO QUỐC CÔNG THẦN









        SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU





Trung Tá Nguyễn Văn Long: Bảo Quốc công thần





Kính mời quý vị xem bài của Duyên AnhMáu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ



Tôi không hiểu, trong Dinh Độc Lập, Dương văn Minh và bọn hàng thần lơ láo đến mức độ nào trước ống kính xấc xược của bọn phóng viên cộng sản và trước những câu hạch hỏi hỗn láo của bộ đội giải phóng cấp tá. Họ có nghe những tiếng súng danh dự, trách nhiệm, tổ quốc của lính văn nghệ diệt T-54 ở cầu Thị Nghè, của lính nhẩy dù cách cổng Dinh Độc Lập chẳng bao xa? Chúng tôi vào trung tâm thành phố. Dân chúng đang bu kín công viên dựng hai người chiến sĩ thủy quân lục chiến Việt Nam họng súng nhắm thằng vào Hạ Viện. Những chiếc loa gắn trên cây cao đã oang oang giọng nói mới chào mừng giải phóng miền Nam. Bài hát Tiến vào Sài gòn ta quét sạch giặc thù muốn rung chuyển thành phố. Nhưng trời vẫn thiếu nắng. Cộng sản đã tiếp thu Đài phát thanh, Bưu điện… Giọng nói cầy cáo của Lý Quý Chung và ca khúc Nối vòng tay lớn không còn nữa.

Chúng tôi lách đám đông. Dưới chân tượng đài của thủy quân lục chiến, xác một người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người sĩ quan cảnh sát đeo lon Trung tá. ông ta mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Trung tá cảnh sát Long đã tự sát ở đây Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng, thây kệ những bài ca cách mạng, những lởi hoan hô bộ đội giải phóng.

Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng trấn Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Đô trưởng Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia đã đào ngũ. Không có Hoàng Diệu, ở những trạng lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và trên những tiểu thuyết đấu tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự nhởn sống hùng mọi hoàn cảnh, người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết tuyệt vời của trung tá Cảnh sát tên Long. Cộng sản đã chẳng ngu dại phong anh hùng, liệt sĩ cho quốc gia. Họ độc quyền anh hùng, liệt sĩ. Ở những cuộc đấu thầu anh hùng, liệt sĩ quốc gia tại hải ngoại, chưa thấy một nén tâm hương tưởng mộ trung tá Long. Có lẽ, liệt sĩ đích thật không lãi lớn bằng liệt sĩ giả vờ thế thì thời đại chúng ta đang sống là cái thời đại gì nhỉ? Nó không chịu, không thích vinh tôn cái thật, đã đành, nó còn nhởn chìm cái thật và vấy bẩn lên cái thật một cách thô bạo, ẩn ý và lạnh lùng. Khi cái thật bị nhận chìm, bị vấy bẩn, cái giả nổi bật, sáng giá và chói lọi, thơm tho. Như vậy, mọi giá trị về tinh thần, về đạo nghĩa bị nhởn chìm theo. Rốt cuộc, bọn giả hình sống với cái giả của chúng, huyễn hoặc mọi người bằng cái giả với bạo lực của quyền uy hợp pháp và cả quyền uy ảo tưởng hậu thuẫn. Và người công chính thụ động, buông xuôi. Cuối cùng, con cháu chúng ta sẽ chỉ biết liệt sĩ đất sét, anh hùng gian dối, vĩ nhân phường tuồng.

Tôi muốn biểu dương trung tá Long như Hoàng Diệu hôm nay, Hoàng Diệu của Sài gòn. ông ta đang nằm kia, dưới chân tượng đài thủy quân lục chiến Việt Nam anh dũng. Máu trung tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ. Cái chết của trung tá Long nếu chưa thức tỉnh được sự u mê của thế giới tự do thân cộng, của bọn phản chiến làm dáng thì, ít ra, nó cũng biểu lộ cái khí phách của một sĩ quan Việt Nam không biết hàng giặc. Tôi không mấy hy vọng cái chết của trung tá Long lay động nổi cái bóng tối vô liêm sỉ trùm đặc tâm hồn những ông tướng đào ngũ. Chúng ta hãnh diện làm người Việt Nam lưu vong vì chúng ta còn trung tá Long không đào ngũ, không đầu hàng giặc và biết chết cho danh dự miền Nam, danh dự của tổ quốc.

- Tôi chứng kiến tự phút đầu.

- Ông nói sao?
- Tôi nhìn rõ ông ta rút súng bắn vào thái dương mình.
- Thật chứ?
- Đáng lẽ tôi phải nói dối.
- Tại sao?
- Vì nói thật lúc này không có lợi.

Tôi nghe hai người Sài gòn nói chuyện. Và tôi được nghe “Huyền sử một người mang tên Long” do một trong hai người kể. Truyện như vầy: 10 giờ 30, Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng, quân đội và cảnh sát tuân lệnh Tổng thống, lột quần áo, giầy vớ, nón mũ, vất súng đạn bỏ chạy về nhà mình hay nhà thân nhân của mình. Một mình trung tá Long không lột chiến bào, không phi tang tích huân chương, không liệng súng đạn. Trung tá Long từ nơi nào đến, chẳng ai rõ. ông xuất hiện ở công viên trước Hạ Viện hồi 12 giờ. Ngồi trên ghế đá, ông ta trầm ngâm hút thuốc. Rồi ông ta nhìn trước, nhìn sau, ngó ngang, ngó dọc. Rồi ông ta đưa tay ôm lấy đầu, cúi thấp. Khi ấy, Sài gòn đã ồn ào tiếng hoan hô cộng sản giải phóng. Bất chợt, ông ta đứng dậy, chậm rãi bước gần chân tượng đài. Trung tá Long đứng thẳng. ông ta ngẩng mặt. Thản nhiên, ông ta rút khẩu Colt, kê họng súng vào thái dương mình bóp cò. Tiếng đạn nổ trùm lấp tiếng hoan hô cộng sản. Trung tá Long đổ rạp.

- Đó, diễn tiến cái chết của Trung Tá Long.
- Ông có mặt ở đây trước lúc trung tá Long xuất hiện?
- Phải. Tôi tuyệt vọng, không thiết về nhà nữa.
- Rồi sao?

- Dân chúng bu quanh xác trung tá Long. Cộng sản chưa có thì giờ kéo xác ông ta đi. Phóng viên truyền hình Pháp thu cảnh này kỹ lắm. Chỉ tiếc họ đã không thu được cái oai phong lẫm liệt của trung tá Long. Họ đến quá chậm và họ chỉ quay phim một xác chết. ông hãy nhìn cho kỹ. Trung Tá Long tuẫn tiết cùng chiến bào, cùng cấp bậc, cùng tên mình.

Tôi đã nhìn kỹ. Lịch sử của chúng ta đã có những vị anh hùng chỉ có tên mà không có họ. Như Đô đốc Tuyết, Đô đốc Long… Hôm nay, chúng ta có thêm trung tá Long. Những ai sẽ viết lịch sử? Và liệu sử gia đời sau có soi tỏ niềm u ẩn của Trung tá Long chảy máu mắt nhìn quê hương lạc vào tay quân thù mà bất lực cứu quê hương, mà chỉ còn biết đem cái chết tạ tội quê hương, dân tộc. Đã hàng tỉ tỉ chữ viết về những chuyện khốn nạn, viết về những tên khốn kiếp, viết về những sự việc khốn cùng. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Người ta đã viết cả pho sách dày cộm để nguyền rủa xác chết. Người ta cũng đã viết cả pho sách dầy cộm để suy tôn xác sống. Người ta ồn ào. Người ta vo ve. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Ai đã làm công việc sưu tầm lý lịch đầy đủ của vị liệt sĩ đích thực này? Than ôi, lịch sử đã hóa thành huyền sử. Cho nên người ta nhìn quốc kỳ mà không cảm giác linh hồn tổ quốc phấp phới bay. Chúng ta đang bị sống trong cái thời đại của những ông tướng đào ngũ, của những ông tổng trưởng đào nhiệm không hề biết xấu hổ. Thời đại của chúng ta còn đòi đoạn ở chỗ, kẻ sĩ và kẻ vô lại đồng hóa trong “lý tưởng” nguyền rủa xác chết và suy tôn xác sống.

Xưa, Hàm Nghi 8 tuổi, hỏi cận thần:

- Tay bẩn lấy gì rửa? Cận thần đáp:
- Nước.
Hàm Nghi hỏi thêm:
- Nước bẩn lấy gì rửa?
Cận thần ngơ ngác:
- Tâu bệ hạ, thần không hiểu.
Hàm Nghi nói:

- Nước bẩn lấy máu mà rửa!

Trung tá Long đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính nhẩy dù đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính văn nghệ đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Những kẻ tạo ra ô nhục 30-4 lấy gì nhỉ? Họ đang cầm ca, cầm đĩa xếp hàng ngửa tay lấy cơm, lấy nước ở đảo Guam. Biết đâu chẳng xẩy ra tranh cơm như tranh quyền bính. Và biết đâu chẳng bị ông quân cảnh Mỹ đen tặng một vài cái tát xiếc! Những kẻ này vẫn thừa thãi vô liêm sỉ để họp bàn, hiến kết cứu nước. Lịch sử lại thêm vài phụ trang chó đẻ.

Giải phóng quân đã đổ đầy trước thềm Hạ Viện. Cỏ đuôi chó hoan hô tưng bừng. Dân chúng chiêm ngưỡng Trung Tá Long tản mạn. Trung Tá Long nằm nguyên chỗ ông ngã rạp cho máu rửa nhục Sài gòn. Giã từ liệt sĩ! Vĩnh quyết liệt sĩ. Xin hãy phù hộ tôi kéo dài cuộc sống hèn để có ngày được viết vài dòng về Trung Tá.

BBT: Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có dịp đọc trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu sót, nếu không muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta muốn biết về Trung Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ túc cho những thiếu sót đó không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn An Vinh,nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng, người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung Tá Long, trong phạm vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An Vinh

Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế, họat động ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.

Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như họat động, Ông cho lệnh di chuyển Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một tháng để thu xếp gia-đình.

Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai:

Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước.

Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại.

Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói: “…tính của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo…”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn.

Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.

Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn văn Long:

“…Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả ( tiếng thông dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy ) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia đình…
…Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn….

… Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương của một công chức.

… Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình đã theo đạo Công Giáo, nhà thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế.. Nhà Long cữa đóng then cài. Long không tiếp bất cứ ai.

…Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền nong lem nhem với Long…”

Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “…Nếu Long chịu nhận vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó chịu không vui đấy…”

Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung , Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.

Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói:

“…chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên buộc… Ông Giám Ðốc kết luận:…Long khắt khe sắt thép với chính mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới giam giữ mình…”

Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long.

Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.

Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay.Tôi bái phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.

Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.

Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn.

Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi cũng vui không ít.

Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát:

Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.

Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay chân lao động.

Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi không quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.

Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến phục.

Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin ân huệ cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi.. Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.

Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của Long:

Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.

Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.

Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới SàiGòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
* * *

Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân- viên Dân Chính đã tự sát tại nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất khuất không đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá Nguyễn văn Long mới được cả thế giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn cách thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm không thể có nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài Chiến Sĩ là nơi biểu tương Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và chính xác, Long anh dũng đền ơn nước.
Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh thời, kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết của Long là một cái chết bất tử.




HỒI TƯỞNG VỀ CỐ ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN - ANH HÙNG VỊ QUỐC VONG THÂN








           SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU












Hồ Ngọc Cẩn (đại tá)


Hồ Ngọc Cẩn (24 tháng 3 năm 1938 - 14 tháng 8 năm 1975) là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông giữ nhiều chức vụ tác chiến trong binh chủng Biệt động quân trong giai đoạn đầu đường binh nghiệp, rồi được biệt phái sang các Sư đoàn 21 và Sư đoàn 9 bộ binh. Chức vụ cuối cùng lúc bị Quân giải phóng miền Nam Việt Nam bắt là đại tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện (tỉnh lị là Vị Thanh nay là tỉnh lị tỉnh Hậu Giang). Sau khi lệnh từ Sài Gònkêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu để cuối cùng đối phương vây bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.


ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN
ANH HÙNG VỊ QUỐC VONG THÂN
Phạm Phong Dinh


Tên tuổi của Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi người còn là một
Sĩ Quan cấp Úy phục vụ trong Binh Chủng Mũ Nâu Biệt Ðộng Quân ở miền Tây. Các
cấp chỉ huy Biệt Ðộng Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đã để ý nhiều đến
tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Ðội Trưởng Biệt Ðộng Quân, về những hành
động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh. Người Trung Ðội
Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xổng lưng dẫn Quân Mũ Nâu xung phong lên
đánh những trận long trời trên chiến trường Ðồng Bằng Sông Cửu Long. Những
chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng. Chỉ trong vòng bốn năm,
Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã được vinh thăng lên đến cấp bậc Ðại Úy và được điều về
làm Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 1 thuộc Trung Ðoàn 33 của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh
‘’Tia Sét Miền Tây’’. Lúc đó trên lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những
khuôn mặt chiến binh dũng mãnh mà đã được ca tụng là những con mãnh hổ miền
Tây, Ðại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này. Những vị còn lại gồm
những tên tuổi lẫy lừng:

*Ðại Tá Nguyễn Văn Huy, Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 4 Biệt Ðộng Quân.

*Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 42 Biệt Ðộng Quân.

*Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 44 Biệt Ðộng Quân.

*Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2 Trung Ðoàn 31, Sư
Ðoàn 21 Bộ Binh

*Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 3 Trung Ðoàn 33 Sư
Ðoàn 21 Bộ Binh

Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu phải
một miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có 5 người hùng. Mỗi người Lính của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, vì
những đóng góp máu xương quá lớn cho Tổ Quốc.

Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại Xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá,
Thân phụ của ông là một Hạ Sĩ Quan phục vụ trong Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam
(Danh xưng của Quân Ðội trong thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng
Thống Ngô Ðình Diệm). Ðại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi
chiến tranh, nên khi lên 7 tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-
Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn. Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947
ông mới được đi học lại, sau khi tình hình ở các Thành Phố trở lại yên tĩnh, quân
Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các Thành Phố. Cậu bé Cẩn
học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm thì thân sinh của
cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Ðịnh. Có lẽ vị
thân sinh của người đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần
và ý hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên
những công nghiệp lớn có ích lợi cho Ðất Nước.

Cuộc đời đèn sách trễ nãi của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đã 17
tuổi, đã ngáng bước đi lên về mặt văn hóa. Theo học quy của Trường Thiếu Sinh
Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Ðệ Ngũ, sẽ được gởi đi học chuyên
môn. Vì vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được Trường gởi lên Liên Trường Võ
Khoa Thủ Ðức học Khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí. Trong lớp văn hóa hồi ở Trường
Thiếu Sinh Quân, ông chỉ ở mức trung bình, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Ðức,
chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu. Ông được cho học thêm Khóa chuyên môn vũ khí bậc
nhì CC2. Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Ðội Quốc
Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nhì. Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân,

Cuộc đời làm Huấn Luyện Viên của ông tưởng như êm đềm trôi và tài năng
quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi Trường khiêm tốn. Nhưng định
mệnh đã dành cho người Anh Hùng một vị trí xứng đáng trong Quân Ðội và những
cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những
huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ Tổ Quốc. Tình hình quân sự càng ngày càng
nghiêm trọng cho một Quốc Gia non trẻ và một Quân Ðội còn tập tễnh kinh nghiệm
chiến đấu, Sĩ Quan chỉ huy thiếu hụt. Bộ Quốc Phòng quyết định mở các Khóa Sĩ
Quan đặc biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm Sĩ Quan có khả năng cho
chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến. Một may mắn
lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa, Ðại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa,
một Cựu Thiếu Sinh Quân, đã nâng đỡ cho các đàn em Thiếu Sinh Quân. Những
Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung học đệ nhất cấp
vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan đặc biệt. Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô
Ðình Diệm và Ðại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ
Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các Binh Chủng thiện chiến hay đặc biệt như
Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Ðộng Quân, Quân Báo, An Ninh
Quân Ðội, Lực Lượng Ðặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Ðại Tướng Tỵ cũng không
quên gởi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Ðẳng
Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho những thế
hệ tuổi trẻ kế tiếp. Ðặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường
Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp
trong hệ thống Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa.

Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại
Trường Hạ Sĩ Quan Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa Ðồng Ðế Nha Trang. Các Tân
Chuẩn Úy Ðặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi
khắp bốn phương và sau này đã trở thành những Sĩ Quan tài giỏi nhất của Quân
Lực, lưu danh quân sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được tuyên chuyển về Biệt Ðộng
Quân Vùng IV Chiến Thuật miền Tây, sau một Khóa học Rừng Núi Sình Lầy của
Binh Chủng Mũ Nâu. Lúc đó các Ðại Ðội Biệt Ðộng Quân biệt lập theo lệnh của Tổng
Thống Diệm, đã được cải tổ và sát nhập thành các Tiểu Ðoàn. Khu 42 Chiến Thuật
gồm lãnh thổ các Tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An
Xuyên, có hai Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân, mà lại là hai Tiểu Ðoàn lừng lẫy nhất của
Binh Chủng, đó là Tiểu Ðoàn 42 Biệt Ðộng Quân ‘’Cọp Ba Ðầu Rằn’’ và Tiểu Ðoàn
44 Biệt Ðộng Quân ‘’Cọp Xám’’. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình diện
Tiểu Ðoàn 42 Biệt Ðộng Quân và làm Trung Ðội Trưởng. Khả năng quân sự thiên
bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã đem
nhiều chiến thắng vang dội về cho Tiểu Ðoàn 42 Biệt Ðộng Quân, được thăng cấp
đặc cách nhiều lần tại Mặt Trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy Tân thăng Hồ
Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy Tiểu Ðoàn. Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu
Ðoàn Phó Tiểu Ðoàn 42 Biệt Ðộng Quân, đặt dưới quyền chỉ huy của một Chiến binh
lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Thiếu Tá Lưu
Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm
quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục.

Cung cách đánh giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân lên thập
bội, khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các Chiến binh gốc Thiếu Sinh

Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn,
Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 15 Bộ Binh tại Mặt Trận An Lộc năm 1972. Trong
khi quân của Trung Ðoàn 15 thuộc Sư Ðoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nã hàng ngàn
quả ghìm đầu xuống những hố cá nhân bên Ðường Quốc Lộ 13 gần Thị Xã An Lộc,
thì Binh Sĩ Trung Ðoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Ðoàn Trưởng của
họ dẫn vài người Lính cũng quả cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn
hỏa pháo cường kích như bão lửa của sư đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này đến hố
chiến đấu kia thăm hỏi Chiến Sĩ, an ủi các Chiến Thương và khích lệ tinh thần Binh
Sĩ. Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà dường như cái chết cũng sợ
hãi và tránh xa con người kiệt xuất ấy. Ðịnh mệnh sẽ dành cho người một cái chết
cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong Mùa Hè Ðỏ Lửa của năm 1972. Dường
như giữa Trung Tá Cẩn và cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả
cảm giống như nhau. Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại
quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng khâm phục người Chiến Binh
Nhảy Dù vĩ đại ấy đã đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc dục Binh Sĩ tiến lên,
giữa những làn đạn chéo như vải trấu của địch quân: ‘’Nếu đạn không trúng mình thì
mình được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng
luôn’’.

Các loại pháo địch từ 122 ly đến 130 ly, chưa kể đến những loại cối 81 ly và
các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của
Quân Ta. Quân Trung Ðoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo Quốc Lộ 13 từ Tân Khai
tiến rất chậm vì đạn pháo giặc. Ðể tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đã
lệnh cho Binh Sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái ‘’miệng ve’’để ẩn trú. Nếu
pháo dội trúng cái ‘’miệng ve’’ nào, thì một Chiến Sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi.
Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố
nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung bình mỗi mét vuông
lãnh vài trái. Nếu tính theo lý thuyết toán học thì mỗi Chiến Sĩ Trung Ðoàn ‘’ăn’’ từ
hai trái lấy lên và như vậy toàn bộ Trung Ðoàn coi như chết hết. Nhưng thật kỳ diệu,
chiến thuật ‘’cò ỉa miệng ve’’ của Quân Ta lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng Chiến
Sĩ. Dứt cơn pháo địch, Chiến Sĩ ta nhú đầu lên điểm danh quân số, thì thấy rằng,
nhờ ơn trời, rất ít chiến thương. Tuy nhiên khi Quân Trung Ðoàn 15 tiến quân trên
Quốc Lộ 13 và giao chiến với quân địch, thì con số thương vong lên rất cao. Có
nhiều Ðại Ðội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ còn khoảng
ba chục Chiến Sĩ.
Ở phía Nam Tân Khai, Sư Ðoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng vì pháo,
nhiều Sĩ Quan cao cấp bị tử thương. Trung Ðoàn Trưởng của Trung Ðoàn là Trung
Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Ðoàn Phó của một Trung Ðoàn khác
hy sinh vì pháo địch quá ác liệt. Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố
Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Ông xuất thân từ Binh Chủng Mũ Ðỏ Nhảy Dù,
con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên thì ông bị liên can đến vụ
thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài Gòn. Thiếu Tá Cần bị tuyên chuyển về

Vì những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ
Ngọc Cẩn là Chiến Sĩ được tưởng thưởng nhiều hy chương nhất của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, với 78 chiếc gồm :1 Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh
Dũng Bội Tinh với Ngành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao,
3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ .

Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Ðoàn 15 Bộ Binh còn tăng viện cho các Trung
Ðoàn bạn và Sư Ðoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt
Miên, các Tỉnh bờ Bắc Sông Tiền Giang. Những tổn thất và vết thương còn chưa hồi
phục từ chiến trường miền Ðông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác. Nhưng có sá gì
chuyện tử sinh, làm thân Chiến Sĩ thì người Lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến
dâng xương máu cho nền tự do của Tổ Quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc.
Một lần nữa, Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức
khó khăn, khó có ai đảm đương nổi. Ông sẽ đi trấn nhậm Tỉnh Chương Thiện, một
Tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối
mật khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và việt cộng phóng ra
những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các Quận Xã hẻo lánh. Chọn Ðại Tá Cẩn về trấn
giữ Tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Ðoàn IV biết chắc Ðại Tá Cẩn cùng với
Lực Lượng Ðịa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải
được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ. Giữ vững được Chương
Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lãnh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam Sông Hậu Giang.
Trong thời gian Ðại Tá Cẩn làm Tỉnh Trưởng Chương Thiện, một huyền thoại
khác về người đã được kể lại. Ðại Tá Cẩn chẳng những là một Nhà Quân Sự xuất
chúng, mà còn là một Nhà Cai Trị và Bình Ðịnh tài ba. Có một ông Quận Trưởng nọ,
muốn cho Chi Khu của mình được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh Tiểu
Khu yểm trợ hỏa lực, nại lý do việt cộng pháo kích hay tấn công. Ðại Tá Cẩn thỏa
mãn tối đa và được báo cáo là Quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực.
Ðại Tá tin thật, ông lệnh cho Sĩ Quan Trưởng Phòng 3 chuẩn bị xe jeep đi xuống
Quận. Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở
vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe jeep cùng với
một vài người Lính, chỉ có những Chiến binh dũng cảm như Ðại Tá Cẩn mới làm
được. Ông Quận Trưởng đang nằm trên võng rung đùi uống Martell với một người
đẹp hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy
huyền thoại. Ðại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem
bản đồ và ra lệnh cho ông Quận: ‘’Tôi muốn những Ấp loại C sau ba tháng được
nâng lên loại B. Những Ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A’’. Ngài
Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết. Ðại Tá Cẩn không trừng trị
tội xao nhãng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ lượng và cương quyết
của Ðại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt treo đung đưa trên đầu. Ðúng ba
tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Ðại Tá Cẩn lại xuống
Quận ngủ đêm, sau khi đã trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này.
Nếu tất cả 44 Tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa đều có những vị Tỉnh Trưởng can
đảm, mẫn cán và tài ba như Ðại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của Tổ Tiên
của chúng ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga-Tàu dễ dàng như vậy được.

Những đóng góp và hy sinh của Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không
sao có thể kể được hết, suốt một đời người đã tận tụy với nước non, danh tiếng lừng
lẫy và nắm giữ những Chức Vụ khó khăn và lừng lẫy, mà người vẫn khiêm nhường
hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về
những thế hệ đàn em. Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Ðại Tá Cẩn ở Cần
Thơ vào mùa hè 1974, đã hỏi ông: ‘’Anh từng là Trung Ðoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh
Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh Sư Ðoàn không?’’. Con người
danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đã khiêm tốn trả lời: ‘’Tôi lặn lội suốt mười
bốn năm qua, gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Ðược chỉ huy Trung Ðoàn là
cao rồi, mình phải biết liêm sỉ chớ, coi Sư Ðoàn sao được. Làm Tỉnh Trưởng bất quá
một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về
coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Ðại Ðội Trưởng, Tiểu
Ðoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em. Tôi sẽ thuật
trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã trải qua’’. Ôi! Cao cả biết ngần nào tấm
lòng vĩ đại trân trọng với nước non và với thế hệ chiến binh đàn em của người. Con
người chân chính để lại cho hậu thế những lời công chính.

Cuối cùng thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của Ðất Nước đã đến. Dân Tộc
Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị Thần
Tướng nước Nam, của những Sĩ Quan các cấp còn chưa được biết và nhắc nhở tới
của những người Chiến Sĩ Vô Danh, một đời tận tụy vì nước non, những đôi vai nhỏ
bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh. Sinh mệnh của Ðại Tá Hồ
Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước. Chu vi phòng
thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn
vào vây chặt lấy bồn phía. Những Chiến Sĩ Ðịa Phương Quân-Nghĩa Quân của Tỉnh
Chương Thiện nghiến răng ghìm chặt tay súng, quyết một lòng liều sinh tử với vị chủ
tướng anh hùng của mình. Ðại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: ‘’chết thì chết
chứ không lùi’’. Ông tự biết những khoảng khắc của cuộc đời mình cũng co ngắn lại
dần theo với chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày sình lấy với Biệt Ðộng
Quân, những ngày lên An Lộc với Chiến Sĩ Sư Ðoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn bão lữa
ngửa nghiêng, những lúc cùng Chiến Sĩ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong
những vùng rừng U Minh hoang dã và những chuỗi ngày chung vai chiến đầu với
Chiến Sĩ Ðịa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mãnh của ông trên
những cánh đồng Chương Thiện hoang dã. Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng
chưa lần nào ông và Chiến Sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng
khó khăn đến như thế này.

Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương
Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng, Ðại Tá
Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn
Khoa Nam. Người trả lời ông lại là phu nhân Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng. Ðại Tá
Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đã đưa Bà Hưng lên văn phòng
Bộ Tư Lệnh. Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ
nổ ầm ầm từ phía Ðại Tá Cẩn. Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn còn đang
chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh của hàng tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 giờ
45 phút tối 30.4.1975 Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng Tử Tiết, Thiếu Tướng
Nam đang đi thăm Chiến Sĩ và Thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện
Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự sát ngay trong đêm. Bà Hưng biết Ðại Tá
Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính cách thiên
bẩm của người Chiến Sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết thì Ðại Tá Cẩn phải chết hào

Quân dân miền Tây đã chứng kiến và khóc thương cái chết của hai vị Thần
Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của Lịch
Sử Việt Nam. Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày
14.8.1975, người dân Thủ Phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút lìa đời cao cả
của người Anh Hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn lang sói đã áp giải người từ Chương Thiện
về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm và giờ phút
hành hình người Anh Hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bọn tiểu
nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình kính phục khí phách của người đối địch, thì
chúng lại lấy lòng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đòi máu của người phải chảy. Chúng
quyết tâm giết Ðại Tá Cẩn để đánh đòn tâm lý phủ đầu lên những người yêu nước
nào còn dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng.

Ðại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm súng
bao quanh người Chiến Sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được
nói. Ðại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho Lịch Sử lời khẳng khái:
‘’Tôi chỉ có một mình, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi.
Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc Quân Phục và chào Lá Quốc Kỳ của tôi lần
cuối’’. Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn. Ðại Tá Cẩn còn muốn nói thêm
những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn nón cối xông
lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng.
Ðiều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho người là không bịt mắt, để người nhìn
thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối khuôn mặt người con gái lớn và Quốc
Dân Ðồng Bào. Rồi người ngạo nghễ ra đi. Cùng ngẩng cao đầu đi vào Chiến Sử
Việt Nam với Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, là người Anh Hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp,
Quận Trưởng Quận Kiên Hưng, bạn đồng Khóa với Ðại Tá Cẩn đã cùng các Chiến
Sĩ Ðịa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 thì ông
bị sa vào tay giặc. Hai người Anh Hùng cuối cùng của miền Tây đã vĩnh viễn ra đi.
Ðất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại. Một nhân chứng đứng ở hàng
đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Ðại Tá Cẩn đã dõng
dạc hét lớn: ‘’Việt Nam Cộng Hòa muôn năm! Ðả đảo cộng sản!’’Năm sáu tên bộ đội
nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người Anh
Hùng sa cơ tàn nhẫn. Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền
mắt lại không dám nhìn. Bà nghe trong cõi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ


Ðúng ra, phải vinh danh Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn,
vì người đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và Vị Quốc Vong Thân. Nhưng
Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh
Quân Khu IV đã Tử Tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng
cho người. Anh linh của Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã thăng thiên. Tên tuổi của người đã
đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hãy thương xót cho Dân Tộc và Ðất
Nước Việt Nam còn đang chìm đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy
ban cho những người còn đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Ðể cùng
nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài
vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.





HỒI TƯỞNG VỀ CỐ THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM-VỊ ANH HÙNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM









        SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU






 DÀNH MỘT PHÚT MẶC NIỆM TƯỞNG NHỚ VỀ VỊ ANH HÙNG DÂN TỘC VIỆT NAM
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Vị Anh Hùng Tuẫn Tiết Ngày Quốc Hận 30-4-1975




Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 (1927-1975)
"Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tròn, bên đơn vị mình có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá. Vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đình tử sĩ." - Tướng Nguyễn Khoa Nam.
...
- Thiếu tướng đừng bỏ tụi em nhe Thiếu tướng.
- Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em.

Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư lệnh đưa tay nâng sửa cặp mắt kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương. Tư lệnh nén đau thương, người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào.


-Tướng Nguyễn Khoa Nam.
-Tướng Lê Văn Hưng.
Sinh Vi Tướng - Tử Vi Thần.

          Tiểu Sử Tướng Nguyễn Khoa Nam

Tướng Nguyễn Khoa Nam sinh tại Đà Nẵng ngày 23 tháng 9 năm 1927, gốc làng An Cựu Tây, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đình văn học, tôn sùng đạo Phật.
    Thân phụ ông là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Học Chánh thời Pháp thuộc tại Đà Nẵng, hồi hưu năm 1941.  Thân mẫu ông là cụ Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lý Vương.  Trong nhiều khía cạnh, ông được thừa hưởng tất cả tinh anh của hai bên nội, ngoại.
    Ông là con trai giữa trong gia đình có năm anh em, nhưng hai anh lớn mất sớm, đến năm 1975 chỉ còn lại ba chị em.  Chị ông là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm, phục vụ trong ngành Y Tế tại Sài Gòn và đã hồi hưu.  Em trai là ông Nguyễn Khoa Phước, phục vụ trong ngành Giáo Dục và cũng là cựu Nghị Sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
    Tướng Nguyễn Khoa Nam đậu bằng Thành Chung Pháp năm 1944 sau đó bằng Tú Tài I năm 1946. Tốt nghiệp Trường Hành Chánh Huế, ông làm việc tại Sở Ngân Sách Trung Việt cấp bậc Chủ Sự Phòng từ năm 1951.
    Cũng như nhiều thanh niên cùng lứa tuổi, ông đã bị gọi động viên, gia nhập khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 4 năm 1953.  Mãn khóa hồi tháng 10 năm 1953, ông đã gia nhập binh chủng Nhảy Dù với cấp bậc Thiếu Úy.  Trong suốt thời gian từ tháng 12 năm 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước vào tháng 7 năm 1954, trên cương vị một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Thiếu Úy Nam đã tham gia nhiều cuộc hành quân trên chiến trường Bắc Việt.
    Vào mùa hè năm 1955, là Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Trung Úy Nam đã tham gia chiến dịch hành quân tảo thanh lực lượng Bình Xuyên ra khỏi Thủ Đô Sài Gòn.  Cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Dù. Trong thời gian này ông được cử đi viếng thăm các trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Pau (Pháp) và tại Nhật.  Đầu năm 1961, ông được thăng cấp Đại Úy.  Năm 1962, Đại Úy Nam được đề cử tham dự khóa học về Chiến Tranh Rừng Rậm tại Fort Braggs rồi năm1963, khóa Bộ Binh Cao Cấp tại Fort Benning, Hoa Kỳ.
    Cuối năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.  Tháng 2 năm 1966, đơn vị ông tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Đoàn 2 Bộ Binh tổ chức nhằm tấn công một đơn vị của Sư đoàn 2 Bắc Việt và do chiến công này Thiếu Tá Nam được trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
    Sau đó, ông được vinh thăng Trung Tá và được đề cử giữ chức vụ Chiến  Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù.  Cuối năm 1967, chiến đoàn Dù do ông chỉ huy đã chiến thắng trận đánh đồi 1416 Ngok Van ở Kontum, tiêu diệt một Trung Đoàn Chủ Lực Bắc Việt.  Ông được ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và là sĩ quan thứ hai của Sư Đoàn Nhảy Dù, sau Trung Tướng Đỗ Cao Trí, được trao tặng huy chương cao quý này lúc còn mang cấp bậc trung tá. Ông cũng được gắn huy chương Distinguished Service Medal của Tổng Thống Hoa Kỳ.
    Đầu năm Mậu Thân 1968, các chiến đoàn Dù được nâng cấp thành các lữ đoàn.  Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được điều động về Sài Gòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và ông được vinh thăng Đại Tá trong thời gian này.
    Đầu năm 1970, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang.  Giữa năm 1970, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức tại mặt trận, cho đến tháng 10 năm 1971 thì được vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ.  Năm 1972, ông được vinh thăng Thiếu Tướng Nhiệm Chức và tháng 10 năm 1973 được lên Thiếu Tướng Thực Thụ.
    Vào tháng 11 năm 1974, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.  Khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, với tư cách Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã quyết định không đầu hàng địch và đã tuẫn tiết vào sáng ngày 1 tháng 5 để bảo toàn khí tiết của một vị tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.  Ông tự sát khi mới 48 tuổi. *
Lê Ngọc Danh 
(Ông Lê Ngọc Danh, cựu Trung úy QLVNCH, là Tùy viên Tư lệnh QÐIV-QK4 cho đến ngày 1 tháng 5 năm 1975. Ông là người đã trực tiếp chứng kiến cảnh cả hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng, Tư lệnh và Tư lệnh phó tự sát. Sau đây là chuyện ông kể trong "Hồi Ký Của Một Tuỳ Viên", trích từ sách "Nguyễn Khoa Nam".)

Tháng 4 năm 1975

Tình hình chung vào tháng 3 năm 1975 rất căng thẳng. Vùng 1, vùng 2 đang đánh lớn còn Vùng 3 và 4 vẫn còn nguyên vẹn. Tư lệnh đi họp liên tục ở Tổng Tham Mưu, ở dinh Ðộc Lập gặp Tổng thống, lúc ở dinh phó Tổng thống. Thời gian còn lại, Tư lệnh thường đến các Tiểu khu và Sư đoàn nhưng đến nhiều nhất là tiểu khu Long An, Ðịnh Tường, Kiến Tường và Châu Ðốc. Vào đầu tháng 4, VC tấn công mạnh, nhằm vào quốc lộ 4 thuộc hai tiểu khu Ðịnh Tường và Long An.

Sư Ðoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Ðịnh Tường còn Sư Ðoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Long An. Vào buổi trưa Tư lệnh đến tiểu khu Long An để biết tình hình địch, VC đã pháo rớt một quả hỏa tiển 122 ly trên giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại gì. Ðịch càng ngày càng tấn công mạnh vào quốc lộ 4, Tư lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu, không để mất vị trí hay bỏ chạy nên VC không chiếm được một vị trí nào cả.
Có một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiển 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và tư dinh Tư lệnh. Vị trí pháo hướng đông chi khu Bình Minh thuộc tiểu khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng.

Tình hình càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Ðéc. Trong lúc này, Tư lệnh rối bời lớp lo phòng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đã di tản từ vùng ngoại ô. Thiếu tướng ra lệnh các Tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân đoàn IV và nhất là giữ quốc lộ 4 đừng để VC cắt đứt. Tư lệnh đặc biệt đến thăm tiểu khu Châu Ðốc, đi bộ thăm vòng đai phòng thủ quy mô của tiểu khu. Những ngày kế tiếp họp liên tục với các Tiểu khu và Sư đoàn. Trong lúc tình hình hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài Gòn lũ lược bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc.

Sáng ngày 24 tháng 4, Tư lệnh đi họp ở bộ Tổng Tham Mưu, nội dung tôi không rõ. Sáng 25 tháng 4, họp ở tiểu khu Ðịnh Tường, có tướng Trường tham dự. Ngày 27 tháng 4, Tư lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí. Sáng 28 tháng 4, cố vấn Mỹ có đến văn phòng Tư lệnh để nói chuyện, nội dung tôi không rõ. Ngày 29, Tư lệnh vẫn đi bay, buổi chiều 29 về họp với tướng Mạch Văn Trường ở Bộ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh ở gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao sao, nhớn nhác chạy lung tung đi lượm đồ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy liệng đầy mặt đại lộ Hòa Bình, quần áo, lon, ly, đồ hộp lon bia vất tứ tung.

Áp lực địch vẫn nặng ở quốc lộ 4, Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp Tư lệnh báo cáo tình hình nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục phòng thủ. Tư lệnh viết Nhật Lệnh đưa thiếu tá Ðức, Chánh văn phòng chuyển đến phòng Chiến tranh Chính trị để đọc trên đài Phát thanh và Truyền hình để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ. Vào buổi chiều, tôi thấy được hình Tư lệnh và kèm theo là Nhật lệnh, nội dung ngắn gọn trấn an dân chúng không được bạo động còn việc tử thủ không được đọc trên đài truyền hình. Sau khi thấy đọc, Tư lệnh buồn buồn chấp tay về phía sau đi tới đi lui trong phòng làm việc ở Bộ Tư lệnh. Sau đó, tướng Hưng, Tư lệnh phó vào gặp Tư lệnh (Nội dung cuộc nói chuyện tôi không rỏ). Về sau, tôi được biết nội dung bản Thông cáo đã bị sửa lại, không chính xác như lời Tư lệnh đã viết.

Ðêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc tiểu khu Vỉnh Bình. Ðịch đã nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư lệnh bảo tôi gọi Trung tá Sơn, tiểu khu trưởng tiểu khu Vỉnh Bình để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay.

Sáng sớm 30 tháng 4, Tư lệnh bay xuống họp ở tiểu khu Ðịnh Tường. Cuộc họp nhanh và xong bay về Cần Thơ. Trở lại Quân đoàn, nói rõ về phòng làm việc của Tư lệnh, phòng làm việc chia hai tầng. Tầng trên có sẵn từ trước, thêm tầng dưới là hầm dưới chân phòng làm việc chính thức. Ở hầm này, rộng và cao, thiết trí giống như phòng làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phòng Tư lệnh. Hầm làm việc này mới được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn.

Tình hình sáng 30 tháng 4 rất vắng vẻ, dân chúng thưa thớt đi lại, xe cộ hạn chế. Về tinh thần binh sĩ vẫn hăng say chiến đấu, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng mặc dù địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh.

Vào 10 giờ sáng, tôi được báo cáo là Thiếu tá Chánh văn phòng rời văn phòng bỏ đi cùng với đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan, lộ trình sông Hậu ra biển. Tôi vội xuống hầm, nơi làm việc mới của Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh đang ngồi và viết ở bàn làm việc. Tư lệnh thấy tôi theo thường lệ kéo lệch cặp mắt kiếng xuống và hỏi:

- Có gì không?
-Trình Thiếu tướng, thiếu tá Chánh văn phòng và đại tá Tỉnh trưởng Phong Dinh đã bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu.

Tư lệnh điềm nhiên không giận và nói:

- Ði hả! Ði làm chi vậy.

Nói xong, Tư lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tỉnh không la không buồn. Tôi bước lên cầu thang về phòng làm việc của mình, lúc này tôi mở radio 24/24 đi theo dõi tình hình ở Sài Gòn.
Tư lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo:

- Gọi đại tá Thiên gặp tôi.
- Dạ.

Ðại tá Thiên mới nhận chức vụ Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh kể từ sáng ngày 30 tháng 4.
Bất chợt, tiếng của tổng thống Dương Văn Minh vang lên trên đài phát thanh. Ông tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với VC và nói:

- Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Tôi vội xô cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh và nói:

- Tổng thống Dương Văn Minh đã .....

Tôi nói chưa hết câu, Tư lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi:

- Qua đã nghe rồi.

Tôi lặng người chầm chậm bước ra. Trong lúc này, nhiều lần Tư lệnh phó liên tục đi vào cửa chánh gặp Tư lệnh. Qua điện thoại, Ðại tá Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp gấp Tư lệnh, lần thứ hai, Ðại tá xin giật sập cầu Long An để cắt đường VC chuyển về Vùng 4. Tư lệnh bảo tôi chuyển lời, cầu để yên không được phá sập.

Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở câu lạc bộ Cửu Long về, Tư lệnh đi thẳng vào phòng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua phòng làm việc, tôi thấy Tư lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư lệnh nhìn từ trang một, rồi từ từ xé bỏ vào sọt rác. Khoảng 2 giờ chiều, Tư lệnh xuống phòng làm việc dưới hầm. Tôi không biết Tư lệnh làm gì bởi vì phòng làm việc này không có nơi nhìn thấy Tư lệnh được. Tư lệnh bấm loa gọi tôi:

- Danh xuống đây tôi bảo.

Tôi vào phòng trên đi theo cầu thang xuống gặp Tư lệnh. Ông đang ngồi ở sofa nhìn về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi đến Tư lệnh nói:

- Danh tháo bỏ những ranh giới, những mủi tên trên bản đồ.

(Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ). Tôi từ từ tháo bỏ, nhìn tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mủi tên đỏ chĩa vào (Có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật theo như tin đồn). Tôi tháo gỡ tất cả những băng keo bỏ vào sọt rát, tháo xong tôi nói:

- Trình Thiếu tướng, em đã tháo xong.
- Ðược rồi.

Tư lệnh buồn buồn theo cầu thang lên phòng làm việc tầng trên, tôi chầm chậm bước theo Tư lệnh và ra phòng làm việc của tôi. Ðộ 10 phút sau, Tư lệnh bấm loa gọi tiếp:

- Danh vào tôi bảo.
- Dạ.
Tôi xô cửa đi nhanh vào, Tư lệnh nhìn tôi nói:
- Tháo bỏ những vị trí trên bản đồ này.
- Dạ.

Tôi đang lúi húi tháo và liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh chấp tay về phía sau chầm chậm đi tới, đi lui. Tôi tháo xong:

- Trình Thiếu tướng, em đã tháo xong.

Nói về phòng làm việc của Tư lệnh, trước khi vào phải qua ba vọng gác: Từ ngoài vào, vọng gác 1 ngoài đầu đường trước khi vào phòng chờ đợi. Vọng gác 2 ngay phòng chờ đợi sát cổng Bộ Tư lệnh. Vọng gác 3 lên tam cấp trước cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh.

Vào khoảng 4 giờ chiều, Quân cảnh ở phòng chờ đợi (Vọng gác 2) lên gặp tôi nói:

- Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư lệnh. Tôi nói:
- Anh bảo họ chờ một chút để tôi trình Tư lệnh.
Tôi gõ cửa vào gặp Tư lệnh và nói:

- Trình Thiếu tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu tướng.
- Ðược, mời họ vào.

Tôi xuống phòng khách gặp hai VC, tôi thấy hai người đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo, một người hơi thấp, nước da ngâm đen cũng mặc thường phục, họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí. Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào phòng làm việc của Tư lệnh. Tư lệnh chào hỏi và mời ngồi sofa, tôi bước nhanh ra phòng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng colt và lấy khẩu AR15 lên đạn và bước nhanh vào phòng làm việc Tư lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này với tư thế sẵn sàng cách khoảng 4 thước, tôi sợ hai ông này ám sát Tư lệnh, tay súng sẵn sàng nếu hai ông này có hành vi lạ là tôi nổ súng bắn liền. Tư lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợt Tư lệnh ngước lên, nhìn tôi và bảo:

- Danh đi ra ngoài đi tôi nói chuyện.
Tôi ấp úng trả lời:
- Dạ ... em ở đây với Thiếu tướng.
- Ðược rồi không sao đâu! Em ra ngoài đi.
- Dạ

Tôi ra lại phòng làm việc, súng vẫn thế thủ, mắt nhìn về hướng theo kẻ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ gì cả. Hai người đứng dậy giả từ. Tư lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về.

Tư lệnh ngồi buồn, kế đứng dậy đi tới đi lui như lúc trước, thời gian này rất căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung, nếu VC chiếm được Vùng 4 thì Tư lệnh sẽ ra sao? Tại sao Tư lệnh vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra, bây giờ còn đi ngoại quốc được không? Còn máy bay không? Hay là Thiếu tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đã vây chặt trong tôi.

Bất chợt tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Ðoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, chạy dài xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, thì ra đó là những người tù vừa được thoát trại giam, tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn ra ngoài đường, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xếch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo hò vui vẻ nhưng họ không phá phách.

Khoảng 6 giờ chiều, điện thoại có tiếng lạ. Thông thường khi có chuông reo, tôi thường nói: Tôi trung úy Danh, tùy viên Tư lệnh, xin lổi ai đầu dây? Ở đầu dây xưng cấp bậc tên họ chức vụ rồi nói nhu cầu. Ðàng này sau khi tôi nói, bên kia đầu dây đáp:

- A lô ai đó? A lô ai đó?

Và tiếng lạ tôi không quen thuộc, tôi gác máy không trả lời. Còn đường dây Hotline trực tiếp của Tư lệnh tôi không rõ. Như vậy VC đã vào đường dây điện thoại. Trong lúc rối rắm, tôi qua phòng Tư lệnh phó gặp trung úy Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó. Lúc gặp anh Nghĩa, tôi nói tình trạng điện thoại đã bị VC chiếm và tôi đã nghe có tiếng lạ. Tôi đề nghị, nếu Tư lệnh và Tư lệnh phó muốn nói chuyện với nhau mình phải dùng máy PRC25, đồng thời tôi viết một loạt tần số để xử dụng máy PRC25 và đánh số thứ tự A, B, C, D ... để Tư lệnh nói chuyện kín hơn.

Khoảng 6 giờ rưỡi, Tư lệnh sữa soạn về tư dinh, Thiếu tướng nói với tôi:

- Danh chuẩn bị xe đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản.
- Dạ.

Xe chở Tư lệnh từ văn phòng đi thẳng vào bệnh viện. Tư lệnh đến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân còn lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư lệnh đến bên thương binh này hỏi:

- Em tên gì?
- Dạ em tên ...
- Em ở đơn vị nào? Có khỏe không?
- Dạ khỏe, em là Ðịa phương quân ở tiểu khu Vỉnh Bình.

Tư lệnh nói tiếp:

- Em nằm nghỉ dưỡng bệnh.

Tư lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ buồn tẻ và nặng nề chầm chậm trôi quạ Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lóm đóm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư lệnh đứng sát bên và hỏi:

- Vết thương của em đã lành chưa?
- Thưa Thiếu tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu chưa lành.

Với nét mặt buồn buồn, Tư lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư lệnh chưa kịp nói, anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư lệnh mếu máo:

- Thiếu tướng đừng bỏ tụi em nhe Thiếu tướng.
- Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em.

Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư lệnh đưa tay nâng sửa cặp mắt kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương. Tư lệnh nén đau thương, người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:

- Em cố gắng điều trị .... có qua ở đây.

Tư lệnh bước hơi nhanh ra cửa bệnh viện, ra sân Tư lệnh dừng lại quay mắt nhìn lại bệnh viện. Tư lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì cả, sự im lặng quá nặng nề, suốt trên đường về tư dinh, Tư lệnh không nói một lời nào.

Về đến tư dinh, tôi thấy Quân cảnh vẫn còn gác ở cổng, tôi đi một vòng xung quanh, những vọng gác vẫn còn người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẻ họ đã bỏ đi bớt. Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp trung sĩ Ngộ quản gia xem hôm nay anh nấu món gì vì hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Ngộ, tôi nói:

- Anh Ngộ bắt một con gà làm và luộc để Thiếu tướng dùng.
- Dạ con gà nào Trung úy?
- Ðàn gà nòi Thiếu tướng nuôi anh chọn một con.

Lúc này trên 8 giờ tối, phía Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen ngịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Ngộ làm và nấu xong, đích thân tôi ra sau trailer mời Thiếu tướng vào ăn cơm. Tư lệnh ngồi vào bàn ăn và nói:

- Danh ngồi ăn cơm cho vui.

Ði các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư lệnh, còn ở dinh Tư lệnh thường ăn cơm một mình, vừa ăn cơm vừa xem truyền hình rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư lệnh gọi tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều gì, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, còn nước luộc gà làm canh, Tư lệnh hỏi:

- Thịt gà đâu vậy?
Tôi gượng cười nói:

- Dạ mấy con gà Thiếu tướng nuôi ở sau, em bảo anh Ngộ làm một con để Thiếu tướng dùng.
- Làm thịt chi vậy, ăn như vậy được rồi. Thôi ăn để nguội.

Tư lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. Còn tôi thì no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng vội buông đũa và nói:

- Dạ em ăn xong, Thiếu tướng dùng tiếp.

Thiếu tướng nói:

- Ăn tiếp, sao Danh ăn ít vậy, thịt còn nhiều.

Vừa nói, Tư lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! Ăn gì nổi, bình thường ăn thấy ngon bây giờ ăn thịt gà cũng như ăn cây mục, miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu tướng ra phòng làm việc. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân nhân đã bỏ đi, số còn lại một vài người đã mặc thường phục, một số vẫn còn mặc đồ lính. Còn hướng phòng trung úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, chắc có lẻ anh đã bỏ đi (nhà trung úy Hỉ ở gần phi trường Trà Nóc). Còn trung úy Việt cùng vợ 2 con vẫn còn ở lại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư lệnh đến bàn làm việc của tôi nói:

- Có liên lạc với tướng Hưng không hè?
- Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi. Tôi nói tiếp:
- Dạ, Thiếu tướng muốn nói chuyện với Tư lệnh phó?
- Qua muốn nói chuyện.

Tôi nói với Tư lệnh:

- Vào lúc 5 giờ chiều, hệ thống điện thoại có tiếng lạ, em có cho anh Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó một số tần số PRC25 để lúc cần Thiếu tướng nói chuyện, nhưng bây giờ em không liên lạc được.

Tôi nói tiếp:

- Ðể em đi lại dinh Tư lệnh phó nói mở máy PRC25 để Thiếu tướng nói chuyện.

Tư lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe jeep chở đi từ tư dinh đến dinh Tư lệnh phó đối diện dinh Tỉnh trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẽ phải vào dinh Tư lệnh phó thì thấy phía bên trái trước dinh tỉnh trưởng có một VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mủi súng chỉa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ:

- VC đã vô tới rồi.

Tôi bảo tài xế:

- Quay trở lại đi không ổn rồi.

Tài xế lái nhanh về dinh Tư lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em còn lại kéo khoảng 4-5 vòng kẻm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ, rào xong tôi vào trailer báo Tư lệnh:

- Trình Tư lệnh, VC đã vào đến dinh Tỉnh trưởng. Em thấy có một VC cầm súng AK ở trước dinh Tỉnh trưởng.

Tư lệnh làm thinh không nói gì cả, khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu tướng:

- Em đi lần nữa, đểThiếu tướng nói chuyện với Tư lệnh phó. Tư lệnh nhỏ nhẹ nói:

- Thôi đừng đi coi chừng nó bắt.
- Dạ không sao!

Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế:

- Anh Thông đâu đến tôi nhờ một chút.

Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Ngộ quản gia nói:

- Em vừa thấy anh Thông ra cổng. Anh đã bỏ đi rồi.

Bất chợt có một anh (tôi quên cấp bậc và tên):

- Trung úy cần gì em giúp.
- Anh muốn đến dinh Tư lệnh phó.
- Ðược rồi để em đưa ông thầy đi.

Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói:

- Ði Honda tiện hơn Trung úy.

Rồi anh chở tôi về hướng dinh Tư lệnh phó, rẻ vào dinh anh đậu cách đây khoảng 10 mét bên lề đường.

Dinh Tư lệnh phó, trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với dinh Tỉnh trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nhìn vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong xòe nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn:

- Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh.

Tôi gọi 4, 5 lần nhưng vẫn thấy im lặng không có tiếng trả lời.

Tôi linh cảm không ổn, tôi gọi tiếp và quay lại định trở về, tôi thầm nói không lẻ mình bỏ cuộc. Tôi nói qua với anh lính đậu bên kia đường:

- Anh ráng chờ tôi một chút.

Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi xòe ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào, tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn:

- Tôi trung úy Danh đừng bắn, tôi trung úy Danh đừng bắn.

Miệng la tay níu kéo leo vào, tôi lên được đỉnh tường theo đà cây ổi tuột xuống đất. Gặp tôi, anh Nghĩa vừa nói vừa khóc:

- Chuẩn tướng tự sát chết rồi Danh.
- Lúc nào?
- Mới đây, chắc có lẽ hồi nảy Danh nghe tiếng súng nổ.

Anh nói tiếp:

- Chuẩn tướng đang ăn cơm, nghe tiếng động, ông bỏ bàn ăn đứng dậy, bà Tướng chạy theo ông ngăn lại. Tư lệnh phó vào đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát.

Tôi đến cửa, thấy cửa phòng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, tôi thấy tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm chầm Tư lệnh phó khóc, còn hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có gì xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa:

- Thôi Danh đi về.

Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC25 gì nữa, chuẩn tướng đã chết rồi. Tôi tình hình rối ren, bận rộn, tôi không nhờ mở cửa, tôi trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung: Tại sao Tư lệnh phó tự sát? Nếu Tư lệnh hay được thì ra sao? Hay là lúc tôi la to gọi anh Nghĩa, Phúc, ở đây tưởng VC vào tới nên Chuẩn tướng tự sát hay là ... tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước đi đến anh lính đậu xe Honda lúc nãy. Trời! xe và người biến đâu mất, tôi đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy, chắc anh bỏ đi rồi, tôi không trách anh, anh đã giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo lộ Hòa Bình đi thẳng về dinh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai vãng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa bải đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió (giấy tờ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ dân hôi của vất ra đường từ hôm trước).

Tôi đi bộ mất trên 15 phút về đến dinh, anh lính vẹt từng vòng kẽm gai tôi đi vào rồi kéo lại vị trí củ. Tôi đi nhanh về phía sau vào trailer để trình Tư lệnh sự việc đã xảy ra, vừa thấy Tư lệnh tôi vội vả nói:

- Trình Thiếu tướng em đến dinh Tư lệnh phó, đến nơi ông vừa tự sát chết, Tư lệnh phó đã bắn vào ngực.
- Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi?

Tư lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc, ngồi trên sofa suy nghĩ liên miên. Tư lệnh phó đã tự sát, chắc Tư lệnh sẽ tự sát theo.Tôi xuống nhà gặp trung úy Việt và nói Tư lệnh phó đã tự sát còn Thiếu tướng không biết thế nào? Hai đứa tôi không tìm ra câu trả lời.

Lúc này khoảng 11 giờ đêm, cứ khoảng 15 hay 20 phút tôi vào trailer một lần. Mổi lần vào liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn còn mang. Lần khác vào, Tư lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:

- Có gì không?
- Em vào xem Thiếu tướng có sai bảo gì không?

Tư lệnh nói:
- Sao em không đi ngủ đi! khuya rồi.

Tôi nhỏ nhẹ nói:

- Trình Thiếu tướng, nếu VC vào dinh tụi em đánh không Thiếu tướng?
- Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.

Tôi rời trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư lệnh ra phòng làm việc tôi đưa một gói hình chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói:

- Danh cất tiền này dành để xài.

(Có thể đây là tiền lương của Thiếu tướng không dùng để dành). Xong Tư lệnh đi vào trailer, tôi hé mở gói này, bên trong toàn bạc 500, tôi đoán chừng trên 40 ngàn đồng và tôi để vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào trailer để quan sát, tôi sợ Tư lệnh tự sát.
Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư lệnh ra gặp tôi nói:
- Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à?
- Dạ em ngủ không được.

Tư lệnh móc từ trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gang tay và nói:

- Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân.

Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc nảy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Ngộ, Thiếu tướng đã cho tôi súng, không hiểu Tư lệnh có ý định gì?
Khoảng sau 1 giờ sáng, anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:

- VC tự động mở cửa vào dinh.
- Anh bảo họ chờ tôi một chút.

Tôi vội vả vào trailer để gặp Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh nằm nghĩ. Tôi trình:
- Trình Thiếu tướng, bọn VC đang vào dinh.
- Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.

Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố 6, 7 người đang vẹt kẻm gai đi vào hướng cửa dinh. Ðến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ có vấn đầu tóc lũng lẵng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát xử dụng) số còn lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc gì cả. Nhóm người này tuổi dưới 40, đến vòng kẻm gai thứ ba từ ngoài vào, còn hai vòng nửa từ cửa dinh ra, tôi vẹt kẻm gai và gặp họ tại đây. Một người trong nhóm quay qua hỏi tôi:
- Anh làm gì ở đây?

Tôi nói:

- Tôi làm quản gia.

Tôi nói trớ, không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn. Người mang khẩu AK hỏi tiếp:
- Anh cấp bậc gì?
- Tôi Trung sĩ.
Bất chợt người mang AK lên đạn đưa mủi súng vào phía sườn tôi và nói:

- Ði.

Tôi lúc bấy giờ hồn phi phách tán, chết là cái chắc. Trong nhóm có người nói:

- Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi.

Bọn chúng từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên:

- Súng ngộ và đẹp quá.

Chị bới tóc tiếp theo:

- Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng.

Tôi nghe và thấy những việc trên cỏi lòng xe lại. Bất chợt, nhóm người này dừng lại, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua phòng ngủ của tôi. Chết rồi, chắc bọn chúng bắn mình ở đây, tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại cửa vô dinh. Tôi thấy Tư lệnh bước ra, đẩy nhẹ cánh cửa (cửa luới chắn ruồi trước khi vào phòng làm việc). Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào phòng (một người tay không, một người mang khẩu P-38, một người mang khẩu Carbin). Số còn lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi. Khoảnh khac, trung sĩ Ngộ từ phòng Thiếu tướng đang nói chuyện với VC chạy đến tôi nói:

- Thiếu tướng bảo Trung úy lấy thuốc lá hút.

Có cớ vào gặp Tư lệnh, người mang AK bỏ thỏng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng sợ hãi nó đàng sau bắn tới. Vô sự thế là thoát nạn, vào phòng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc Capstan đầu lọc mời Thiếu tướng một điếu, 3 người mổi người một điếu (Tư lệnh hút thuốc 3 số 555 nhưng thỉnh thoảng hút thuốc Capstan đầu lọc). Tôi thấy Tư lệnh ngồi trên sofa băng dài, người tay không ngồi trên ghế nhỏ đối diện Tư lệnh, người mang khẩu P-38 ngồi dưới sàn nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mủi súng hướng về phía Tư lệnh, còn người mang khẩu carbin đứng ngay cửa phòng tư thế tác chiến.

Xong nhiệm vụ tôi bước ra ngoài, người mang AK vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ý đến tôi nữa. Trên dưới mười phút nói chuyện, nhóm người này rời dinh ra về, tôi vào phòng thấy Tư lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt buồn buồn, nhìn trên sofa tôi thấy điếu thuốc của Thiếu tướng còn cháy dở dang, mới 1/3 điếu nằm trên sofa bốc khói làm lủng một lổ nhỏ, tôi lấy vất đi. Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay ký tên gì cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư lệnh vào trailer nằm nghĩ, tôi vào lần nữa thấy Tư lệnh nằm yên, chắc Tư lệnh đã mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư lệnh và tôi hầu như không ngủ, khoảng 3 giờ sáng, tôi rón rén vào phòng Tư lệnh lần nữa, thấy Tư lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức vì trong lúc nằm nghĩ vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt ra phòng làm việc ngã lưng trên sofa một chút, vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng.

Trong lúc nửa tỉnh nửa mê bổng nghe tiếng chuông "boong, boong, boong", tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy hơn 6 giờ, qua đến bàn Phật, tôi thấy 3 cây nhang Tư lệnh đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút. Tư lệnh mặc quân phục hẳn hoi đang nghiêng mình xá Phật. Tôi vội đi nhanh làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu tướng. Thiếu tướng đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi:

- Ðêm qua, Danh ngủ được không?
- Mệt quá em nằm nghỉ một chút.

Tư lệnh vẫn ngồi trên sofa nơi phòng thờ Phật, tôi đi sang qua phòng làm việc. Một lúc sau, Tư lệnh đến bên tôi hỏi:

- Gặp tướng Trường được không hè?

Lúc này khoảng 6 giờ 30 sáng.

- Dạ ... dạ. Tôi ấp úng trả lời. Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy tướng Trường chạy xe jeep ngang qua dinh.

Tư lệnh hỏi tiếp:

- Có phải Trường không?
- Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống tướng Trường.
- Thôi đừng đi tìm, kẻo bị chúng bắt.
- Dạ.


Tướng Nam trong 1 dịp đang lễ Phật. Bên trái tướng Nam là Thượng Tọa Thích Tâm Giác, Giám Ðốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo. Hình do ông Hồ Ðắc Huân, Ban Biên Soạn Lược Sữ QLVNCH cung cấp. (http://www.nguyenkhoanam.com/hinh_anh_moi.html)
Rồi Tư lệnh đi ra sau vào trailer, một lát sau Tư lệnh đi ra hai tay xách hai vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào phòng thờ Phật. Tư lệnh đưa cho tôi một cái màu cam, còn trung úy Việt một cái màu đen hay nâu tôi không nhớ rỏ. Tư lệnh buồn buồn nói:

- Danh giữ cái này, Việt giữ cái này.

Tư lệnh chỉ nói ngắn gọn không nói thêm gì, hình như cổ ông nghẹn lại. Tư lệnh vội bước đi, cách vài bước Tư lệnh quay lại nói tiếp:

- À, quên chìa khóa.

Rồi Tư lệnh đi thẳng về sau vào trailer, một lúc sau trở ra trao cho tôi hai chìa khóa và nói:
- Cái này của Danh, cái này của Việt.

Tôi linh tính sắp có điều gì sẽ xảy ra. Tư lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra lộ Hòa Bình trước cửa dinh, tôi đứng bên tay phải Tư lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trước lộ vài xe qua lại, người thưa thớt vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu tướng bật khóc. Tướng cố nén tiếng khóc không bật thành tiếng, những giọt nước mắt cuộn tròn chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy, ba người đứng ở đây mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi nghĩ Tư lệnh đi ngoại quốc hết kịp rồi, tới đây VC có bắt Tư lệnh không? Có làm hỗn bắn Tư lệnh không? Nếu sự việc xảy ra thì phải giải quyết làm sao? Tôi đang miên man suy nghĩ, Tư lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới.

Tư lệnh sắp tự sát

Từ ngoài nhìn vô bàn Phật, Tư lệnh ngồi trên ghế sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về thăm thăm vợ con, còn trung sĩ Ngộ đang thập thò trước cửa. Tư lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông "boong, boong, boong" xong xá 3 xá tiếp, xong Tư lệnh về ngồi nơi cũ, hai tay để trên thành gỗ sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì sắp xảy ra. Bất chợt, Tư lệnh xoay qua bảo tôi:
- Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi.
- Dạ.

Tôi tôi thầm nghĩ Tư lệnh và tôi độc thân chắc Tư lệnh nghĩ cách khác. Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng trung úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ "đùng" phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi xoay người trở lại chưa kịp bước trung sĩ Ngộ thất thanh chạy la lên:
- Ðại úy ơi! Ðại úy ơi! Thiếu tướng tự sát chết rồi.

Trong lúc sợ hãi, anh Ngộ gọi tôi là Ðại úy. Tôi chạy nhanh vào thấy cảnh tượng hải hùng chưa bao giờ gặp. Tư lệnh ngã ngửa hơi lệch về phía sau sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, khẩu Colt 45 vẫn còn trong tay buông thỏng xuống lòng Tư lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đã nới lỏng, đầu đạn xuyên qua màng tang phải qua trái, ngước mắt nhìn lên trần nhà. Tư lệnh chưa chết, nhưng nói không được, giật run rẩy người, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng "khọc, khọc, khọc" từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Ngộ thấy vậy vội nói:

- Thôi mình chở Thiếu tướng đi bệnh viện.

Tôi và anh Ngộ ôm chầm lấy Thiếu tướng vừa khóc vừa nói:

- Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu tướng đã quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu tướng đi thăm anh em thương binh ở bệnh viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh qua ở lại với các em.

Anh Ngộ nói tiếp:

- Em đâu dám đến gần Thiếu tướng. Ðứng ở ngoài cửa em chỉ thấy lưng Thiếu tướng. Em thấy Thiếu tướng móc từ trong túi ra, em tưởng Thiếu tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu tướng nổ súng liền em chạy lại đâu kịp.

Vừa nói anh Ngộ khóc nức nở, chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư lệnh khóc. Trong lúc bối rối và hết hồn, tôi đâu có tâm trí đi xem đồng hồ, khoảng 7 giờ 30 ngày 1 tháng 5 năm 1975.

Lê Ngọc Danh


Tài liệu:
* http://www.nguyenkhoanam.com/tieu_su_tuong_nam.html
Nguyễn Khoa Phước, em trai của Tướng Nam kể lại:
Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh, Sĩ Quan Tùy Viên của Anh lên Sài Gòn tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng 6-7 giờ  rạng ngày 1 tháng 5 năm 1975. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt-45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngả sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40,000 đồng tiền Việt Nam. Bác Sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số chiến hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ ngày 2 tháng 5 năm1975.

    Tháng 3 năm 1984, vợ tôi cùng cô cháu gái là Nguyễn Mạnh Diệu Thúy từ Sài Gòn về Cần Thơ xin hốt cốt, lúc này tôi đang ở tù tại Nam Hà-Ba Sao. Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy còn nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng còn rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một cuốn kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning. Bộ xương đã được thiêu liền khi đó. Khi thiêu xong tro hài cốt được gia đình đựng trong bình sứ, đem về Sài Gòn ngay hôm đó. Vài ngày sau, lễ phục tang được tổ chức tại chùa Già Lam với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Anh được đặt thờ tại chùa Già Lam, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định.


Hình ảnh Tướng Nam đặt tại Chùa là hình lúc Tướng Nam mới ra trường. 
Nhớ Về Người Anh, Tướng Nguyễn Khoa Nam


Theo dõi sự kiện: