Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 164 (01-02-2013)




                            






     SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU





Bản Tin




Kính gởi tới Quý Ân nhân, Quý Ủng hộ viên, Quý Độc giả
Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 164 phát hành ngày 01-02-2013,
- Bài xã luận của bán nguyệt san.
Xin cảm ơn Quý vị đã đón nhận và tiếp tay phổ biến, nhất là phổ biến ngược về trong nước cho Đồng bào thân yêu.

Ban biên tập báo TDNL
Cái gọi là Hiến pháp Cộng hòa XHCN Việt Nam !!!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 164 (01-02-2013)

            Trên thế giới, ai cũng công nhận sở dĩ Hoa Kỳ là quốc gia phát triển về kinh tế, tiến bộ về khoa học, thành đạt về giáo dục, bình đẳng về nhân quyền và ảnh hưởng về chính trị quốc tế vào bậc nhất hoàn cầu, chính là nhờ họ có một nền tảng luật pháp hết sức vững chãi, nghĩa là một Hiến pháp giá trị, một Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nhân loại mà hầu như chẳng có bất cứ một lỗi văn bản hay đúng hơn một lỗi nguyên tắc lớn nào!

            Được hình thành năm 1787 tại Philadelphia, với mong muốn trở nên một căn bản trường tồn qua nhiều thời đại, Hiến pháp Hoa Kỳ đã theo một nguyên tắc quan trọng là dựa trên bản tính tự do của con người và tính chất dân chủ của xã hội mà khẳng định những điều sẽ không bao giờ thay đổi, chẳng hạn mỗi con người đều có quyền được sống, quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, mỗi cá nhân đều có quyền tư hữu thiêng liêng và bất khả xâm phạm, mọi công dân đều có quyền bầu lên cũng như bãi nhiệm chính phủ của mình... Hơn 2 thế kỷ qua, bản văn ngoại hạng này chẳng cần thay đổi. Chỉ có những điều phụ tùy được bổ sung gọi là Tu chính án.

            Đang khi đó thì tại Việt Nam, chỉ trong không đầy 70 năm, dù dưới cùng một chế độ chính trị, Hiến pháp (tạm gọi vậy) đã thay đổi xoành xoạch, 4 lần rồi và đang chuẩn bị lần thứ 5, chưa kể những lần sửa đổi nhỏ. Quả là một con số kỷ lục không tìm thấy đâu trên thế giới! Về việc này, cựu bộ trưởng tư pháp CS Nguyễn Đình Lộc đã biện minh như sau: “Chúng tôi (Việt Nam) phát triển theo một điều kiện mà tình hình đất nước luôn có những giai đoạn thay đổi. Tương ứng từng giai đoạn như thế phải có một Hiến pháp. Phải thấy được đặc thù của chúng tôi là từng giai đoạn mang một tính chất khác cho nên phải có bản Hiến pháp. Cho nên có thể thấy Việt Nam rất tôn trọng Hiến pháp. Mỗi giai đoạn phát triển dù thế nào cũng có một bản Hiến pháp tương ứng”. (RFA 19-11-2012)

            Đó chỉ là kiểu ngụy biện lếu láo! Bởi lẽ do bản chất độc tài đảng trị, người Cộng sản không quan niệm Hiến pháp (như mọi quốc gia dân chủ trên thế giới công nhận) chính là bộ luật cao nhất do toàn dân dựa trên nhân tính tự do và xã hội tính dân chủ để soạn ra mà xác định các quyền con người và quyền công dân, chế độ chính trị tự do và chế độ kinh tế phát triển, quyền hạn và bổn phận của chính phủ như công bộc được toàn dân giao cho nhiệm vụ điều hành quản lý đất nước. Nói cách khác, đi từ lý thuyết Khế ước của triết gia Hy lạp Aristote (tk IV trước CN, tác giả cuốn “Cộng hòa”), được triển khai bởi nhiều triết gia Âu châu thế kỷ 17 và 18 như Thomas Hobbes, John Locke và Jean-Jacques Rousseau (tác giả cuốn “Về khế ước xã hội”) nhằm xóa bỏ tư duy cai trị kiểu quân chủ chuyên chế (Vua là thiên tử, con trời), nhân loại văn minh -kể từ sau Cách mạng Hoa Kỳ rồi Cách mạng Pháp- đã quan niệm Hiến pháp là khế ước, giao kèo giữa nhà nước với người dân, là văn kiện giao phó quyền lực chính trị từ người dân cho Nhà nước để thay họ điều hành quốc gia và đảm bảo an toàn, tự do, bình đẳng và phát triển cho họ. Nói theo kiểu tiêu cực thì Hiến pháp là một khế ước của nhân dân lập ra để kiểm soát quyền lực nhà nước, để ràng buộc chính phủ chứ không phải để nhà nước ban quyền cho người dân theo kiểu thí ân huệ.

            Nhưng ở các quốc gia độc tài, nhất là độc tài Cộng sản, Hiến pháp được sử dụng như cương lĩnh của nhà nước hay thoát thai từ cương lĩnh của đảng cầm quyền. Điều này chính Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch Quốc hội CS đã nhấn mạnh tháng 8 năm 2011: “Ủy ban dự thảo và Ban biên tập cùng các Tổ biên tập cần nắm vững và đưa vào bản Hiến pháp mới nội dung Cương lĩnh quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Nghị quyết vừa được Đại hội XI của đảng CS thông qua”. Thành ra cái được gọi là Hiến pháp của nhà nước Cộng sản không phải là HP thật mà chỉ là pháp lệnh, quân lệnh từ trên đảng truyền xuống cho dân thi hành bất luận đúng sai, giống thời chuyên chế quân chủ. Nó và các bộ luật dưới nó được giai cấp cầm quyền (tức đảng thống trị) sử dụng như công cụ khống chế, vũ khí trấn áp bất cứ ai chống lại chủ trương đường lối cũng như hành vi ứng xử phản dân hại nước, củng cố quyền lực và vơ vét quyền lợi của bọn họ, của đảng họ.

            Lẽ ra Hiến pháp phải giúp cho người dân được quyền tự do chính trị, nghĩa là xây dựng được một thể chế dân chủ với cơ cấu tam quyền phân lập; được quyền tự do kinh tế, nghĩa là xây dựng được một nền kinh tế thị trường có cạnh tranh lành mạnh; được bảo đảm an sinh, nghĩa là có quyền tư hữu về tài sản cũng như các phương tiện sản xuất, mà chủ yếu là đất đai; được bảo đảm an ninh, nghĩa là có những bộ luật bảo vệ công lý, bênh vực nhân quyền, có những lực lượng giúp đỡ công dân, giữ gìn xã hội, bảo vệ tổ quốc. Thế nhưng, sau bản Hiến pháp năm 1946 tàm tạm vì có công nhận các nhân quyền và dân quyền (song lại trao quyền lực quá lớn cho một cá nhân -Chủ tịch Nước- đồng thời tước đoạt quyền lực của cơ quan đại diện nhân dân -Nghị viện- để giao cho một nhóm nhỏ mang tên Ban Thường vụ Nghị viện. Đây là nguồn gốc của cơ chế “Chủ tịch Nước–Ban Thường trực Quốc hội” vốn sẽ bị thay bằng cơ chế “Bộ chính trị–Ban chấp hành Trung ương Đảng” đầy lộng quyền), thì các bản “Hiến pháp” năm 1959, 1980, 1992 và nhất là Dự thảo sửa đổi hiện nay đều hoàn toàn và ngày càng đi ngược lại ý nghĩa, mục tiêu của một bản Hiến pháp đích thực, vẫn chỉ là các bản văn hết sức phản động, chẳng có dấu hiệu của một nhà nước pháp quyền vì dân.

            · Bởi lẽ nền tảng của nhà nước pháp quyền là những luật cơ bản vốn phải được áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả chính phủ. Các luật này được tạo ra bởi người dân nhằm kiểm soát những hoạt động mà chính phủ được phép thực hiện, không để cho bộ máy nhà nước được làm tất cả những gì mình muốn. Một trong những cách để hiện thực điều này chính là hệ thống tam quyền phân lập. Quyền lực của nhà nước, của chính phủ phải được phân ra. Và mỗi nhánh phải được vận hành bởi những thành phần khác nhau để có thể kiểm tra, giám sát, kiềm chế, đối trọng lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng giữa các quyền lực. Điều này sẽ giúp bảo đảm rằng đất nước không bị điều hành bởi chỉ một người hay một nhóm người, dân tộc thoát khỏi chế độ độc tài, chuyên chế, toàn trị và xã hội cũng ngăn chặn được sự thông đồng, lạm dụng quyền lực. Thế nhưng, Dự thảo 2013 cho thấy tổ chức bộ máy Nhà nước vẫn không phân biệt rạch ròi các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các cơ quan hiến định khác; các nhánh quyền lực vẫn bị chi phối bởi đảng CS và Bộ chính trị; hệ thống tư pháp vẫn không bảo đảm được quyền xét xử độc lập, chỉ dựa vào Hiến pháp và luật. Đặc biệt, thay vì thiết lập Tòa án Hiến pháp với chức năng phán quyết, Dự thảo chỉ đề xuất Hội đồng Hiến pháp với chức năng tư vấn, kiến nghị!

            · Thứ đến, như Kiến nghị 7 điểm về sửa đổi Hiến pháp ngày 19-01-2013 nói rõ, mục đích của việc thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền tự nhiên của con người. Dự thảo tuy đã điều chỉnh thứ tự để đề cao các quyền này so với Hiến pháp 1992 (từ chương 5 đưa lên chương 2), nhưng vẫn có vô số điểm chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế về nhân quyền, như các quy định hạn chế về quyền lợi (Điều 15, 16, 20), quy định tùy tiện về nghĩa vụ (Điều 41, 42, 49). Việc nhấn mạnh “quyền con người, quyền công dân có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” (thật vu vơ mơ hồ) rồi việc tiếp tục đưa vào cụm từ ma giáo “theo quy định của pháp luật” sẽ mở đường cho việc nhân danh HP để vi phạm nhân quyền, đàn áp tự do như mấy chục năm qua.

            · Tư hữu là quyền tự nhiên của mỗi con người. Điều 16 bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền đặt nó ngang hàng với tự do, an ninh và chống áp bức. Điều 17 bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền cũng khẳng định “mỗi cá nhân riêng biệt hay trong cộng đồng đều có quyền tư hữu”. Tuyệt đại đa số những bản HP trên thế giới đều ghi nhận tư hữu -đặc biệt tư hữu đất đai- là quyền tuyệt đối của mỗi công dân, vì nó là điều kiện để bảo vệ tự do và nhân phẩm. Thế nhưng, dự thảo sửa đổi HP 1992 vẫn khăng khăng khẳng định ở Điều 57 (sửa đổi, bổ sung Điều 17, Điều 18) : «Đất đai... là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu». Rồi còn hợp hiến hóa «quyền nhà nước thu hồi đất» ở Điều 58 (sửa đổi, bổ sung Điều 18) trong đó lại mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế xã hội. Đây là một sự thụt lùi so với Hiến pháp 1992 và có thể gây bùng nổ bất ổn trong một xã hội vốn đã chứng kiến hàng triệu vụ khiếu nại, khiếu kiện về đất đai trong những năm qua.

            · Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân và tổ quốc lên trên lợi ích của bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Do đó mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang (quân đội, công an, dân phòng…) chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, giữ gìn sự an ninh của xã hội, che chở cuộc sống của dân lành. Bởi thế lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành (mà lại trung thành tuyệt đối) với đảng CSVN, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo. Quy định này hết sức mới mẻ, không hề có trong các bản “HP” cũ, kể cả “HP 1980” là lúc đảng ở đỉnh cao uy tín và quyền lực. Đó cũng là một quy định quái đản, chưa hề thấy trong bất cứ một hiến pháp nào, bộc lộ bản chất cực quyền của đảng CSVN và nỗi lo âu cực đại của cái tổ chức chính trị chưa bao giờ vì dân vì nước này.

            Tóm lại, có thể nói những bản văn gọi là “Hiến pháp” 1959, 1980, 1992 và nhất là “Dự thảo sửa đổi HP 2013” chẳng đáng gọi là Hiến pháp chút nào. Đó chỉ là ý muốn độc đoán, cương lĩnh độc tài của đảng CS (theo kiểu Luật là tao! Tao là luật!) lâu lâu lại sửa đổi chút ít để gia tăng quyền lực cho đảng, chứ chưa bao giờ biểu hiện và thể hiện khát vọng tự do dân chủ của nhân dân, mệnh lệnh của chủ nhân đất nước giao cho đầy tớ công bộc. Chính vì thế, các bản văn luật pháp cao nhất này, thay vì xây dựng được một xã hội an lạc phú cường, một đất nước phát triển tiến bộ, một cộng đồng hòa hợp đoàn kết, một quốc gia uy tín đáng nể (như Hoa Kỳ và Âu châu chẳng hạn…) thì chỉ tạo ra một Việt Nam tụt hậu đói nghèo, dân tình điêu đứng khốn khổ và vận nước ngày càng suy vong, nguy kịch, nhất là trong bối cảnh kẻ thù truyền kiếp Đại Hán đang hăm he.

            BAN BIÊN TẬP

Tu do ngon luan so 164 (01-02-2013).docTu do ngon luan so 164 (01-02-2013).doc
964K   View   Download  


Phúc trình thường niên của Tổ chức Nhân quyền Quốc tế Human Rights Watch (HRW) về tình hình Nhân quyền thế giới năm 2013 trong đó đề cập đến việc đàn áp có hệ thống của chính quyền Nhà nước Việt Nam đối với các tiếng nói bất đồng chính kiến trong nước









       SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU






Dominhtuyen

Phúc trình thường niên của Tổ chức Nhân quyền Quốc tế Human Rights Watch (HRW) tại New York hôm 31-01-2013 về tình hình Nhân quyền trên thế giới trong đó nhận định Chính phủ Việt Nam  "đàn áp một cách có hệ thống các quyền tự do ngôn luận, lập hội và nhóm họp ôn hòa và trấn áp những người lên tiếng chất vấn chính sách nhà nước" đã phản ảnh một cách trung thực và rõ nét về tình trạng vi phạm nhân quyền ngày càng trở nên tồi tệ hơn tại Việt Nam. Bất cứ ai và dù thuộc bất kỳ thành phần nào trong xã hội mà dám có tư tưởng bất đồng quan điểm với chính phủ hoặc có hành vi được xem là gây bất lợi ảnh hưởng không tốt đến quyền lực và vị trí lãnh đạo độc tôn của Đảng và Nhà nước chính quyền cộng sản Việt Nam đều có thể bị liệt vào phần tử "phản động" theo cách gọi hiện nay của Nhà cầm quyền và hầu hết đều bị cáo buộc với tội danh theo các điều 88 "Tuyên truyền chống Nhà nước" hoặc điều 79 "Âm mưu lật đổ chính quyền"....

Việc đàn áp các tiếng nói ôn hòa bất đồng chính kiến trong nước của chính quyền các cấp tại Việt Nam ngày càng có hệ thống và trở nên tinh vi hơn. Chính quyền cộng sản Việt Nam luôn viện dẫn những lý do an ninh quốc gia một cách mơ hồ để tùy tiện áp bức, sách nhiễu và bắt bớ trái phép người dân bất chấp luật pháp, hiến pháp Nhà nước và Công pháp Quốc tế, cũng như bất kể về lương tâm đạo đức con người để bảo vệ và che đậy hành vi sai trái và đầy tội lỗi của các giới chức chính quyền. Điều 88 và điều 79, hai điều khoảng được diễn giải một cách mơ hồ và phi lý của Bộ luật Tố tụng Hình sự thường xuyên được Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam xử dụng như quân bài chính để đàn áp và trừng trị các tiếng nói bất đồng quan điểm với chính phủ và cũng là lá chắn tốt nhất và hữu hiệu nhất trong việc bảo vệ vị trí lãnh đạo độc tôn của Đảng và chính quyền Nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam.

Mặc dù thường xuyên bị Quốc tế lên án chỉ trích, nhưng Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trước sau như một vẫn tiếp tục phớt lờ dư luận trong và ngoài nước. Không những thế, chính sách đàn áp quyền Tự do Ngôn luận và Tự do Tôn giáo đang ngày càng có xu hướng gia tăng và trở nên khốc liệt hơn mà việc kết án nặng nề đối với các blogger bất đồng chính kiến và hàng chục thanh niên trẻ Công giáo và Tin Lành tại Nghệ An trong thời gian qua là những bằng chứng cụ thể rõ ràng nhất. Quyền con người tại Việt Nam đang ngày càng bị chính quyền chà đạp một cách thô bạo và trắng trợn hơn bao giờ hết đến nỗi chính phủ Hoa Kỳ, một quốc gia đồng minh lớn của Việt Nam và cũng là đối trọng tiềm năng duy nhất có thể đối kháng với chính quyền cộng sản Trung Quốc mà Việt Nam kỳ vọng trong giải quyết tranh chấp chủ quyền tại khu vực Biển Đông đã phải hủy bỏ cuộc đối thoại Nhân quyền Việt-Mỹ năm 2013 vốn được tổ chức hàng năm giữa hai nước vì thành tích Nhân quyền tệ hại và kém cõi của chính phủ Việt Nam trong thời gian qua.




Bản Tin






VN 'đàn áp có hệ thống'



Blogger Điếu Cày nói mình vô tội trong phiên tòa ngày 28/12/2012



Phúc trình của tổ chức Human Rights Watch (HRW) nói chính phủ Việt Nam "đàn áp một cách có hệ thống các quyền tự do ngôn luận, lập hội và nhóm họp ôn hòa và trấn áp những người lên tiếng chất vấn chính sách nhà nước".
Tài liệu thường niên về tình hình nhân quyền thế giới của tổ chức đặt trụ sở ở New York vừa công bố hôm 31/1.


Các bài liên quan








Chủ đề liên quan





HRW cáo buộc Việt Nam "tùy tiện bắt bớ các nhà hoạt động, giam giữ biệt lập trong thời gian dài, không cho họ gặp gỡ gia đình hoặc tiếp cận với các nguồn trợ giúp pháp lý, tra tấn và truy tố họ ra trước các tòa án bị chính trị tác động".

Họ bị "áp đặt các mức án tù thật nặng với các tội danh mơ hồ về xâm phạm an ninh quốc gia".

Đấu đá phe phái

HRW cho rằng "Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tranh nhau giành quyền kiểm soát bộ máy kinh tế chính trị, dẫn đến một cuộc tranh giành quyền lực hiện vẫn còn đang tiếp diễn"

"Tuy nhiên, chẳng có bên nào lên tiếng hay có biểu hiện hướng tới cam kết bảo đảm nhân quyền."

Chi tiết đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc nhắc Thủ tướng về "văn hóa từ chức" được HRW dẫn ra như ví dụ cho thấy ở bề nổi, ngôn luận cá nhân, báo chí, chính trị "được tự do hơn".

Nhưng vẫn có "bàn tay đàn áp" với những ai "có phát ngôn đi quá giới hạn, hoặc dám đề cập đến những vấn đề nhạy cảm như phê phán chính sách đối ngoại của nhà nước đối với Trung Quốc hoặc chất vấn sự độc quyền của đảng cộng sản".

Ngày 5/8 năm ngoái, hơn 100 người tuần hành bằng xe đạp để cổ vũ quyền của những người đồng tính, lưỡng tính và chuyển đổi giới tính lần đầu tiên. Sự kiện diễn ra yên lành.

Nhưng cùng ngày hôm đó, hơn 20 người bị tạm giữ vì "gây rối" khi tuần hành ở Hà Nội phản đối chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông.

Điều luật 'mơ hồ'

Nhạc sĩ Việt Khang là một trong những người bị 
tống giam theo điều 88


HRW tiếp tục chỉ trích trong năm 2012, chính quyền Việt Nam dùng những điều luật hình sự "mơ hồ" để bỏ tù "ít nhất 33 nhà hoạt động và bắt giữ thêm ít nhất 34 nhà vận động tôn giáo và chính trị khác".

Bên cạnh đó, ít nhất 12 nhà vận động nhân quyền bị bắt từ năm 2011 vẫn đang bị tạm giam chưa xét xử.

Báo cáo đề cập các vụ xử gây chú ý như phiên tòa với ba blogger Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Tạ Phong Tần, và Phan Thanh Hải, hay hai nhạc sỹ Trần Vũ Anh Bình và Võ Minh Trí (nghệ danh Việt Khang) xử theo điều điều 88 bộ luật hình sự.

Trong phần về các đối tác quốc tế, báo cáo nhận định quan hệ "phức tạp" với Trung Quốc "đóng vai trò then chốt" trong chính sách đối nội và đối ngoại của Việt Nam.

"Với Trung Quốc, chính quyền Hà Nội cam kết tình hữu nghị, nhưng về mặt đối nội, họ phải ứng phó với những lời chỉ trích rằng chính phủ đã không có được phản ứng thích đáng trước những biểu hiện hung hăng của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang trong vòng tranh chấp."

Quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ "tiếp tục phát triển" khi Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Tuy vậy, HRW nói các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ đã bày tỏ rằng "thất bại trong việc cải thiện nhân quyền sẽ hạn chế mức độ gần gũi trong quan hệ giữa hai chính phủ".

Ông Brad Adams, giám đốc châu Á của HRW, nói: "Năm qua nên là sự thức tỉnh cho những nước như chính phủ Nhật vẫn làm ăn bình thường trong khi công dân Việt Nam thường xuyên bị án tù dài chỉ vì bày tỏ ý kiến."











Khối Dân chủ 8406 chia buồn về sự ra đi của Nhà Văn Hoàng Tiến









       SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU







Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam



Chia buồn về sự ra đi của nhà văn Hoàng Tiến.

            Khối 8406 chúng tôi xin đau buồn báo tin: vì tuổi cao, bệnh nặng, Nhà văn Hoàng Tiến đã từ trần vào lúc 0 giờ 50 phút, ngày 28/1/2013 tại Hà Nội, hưởng thọ 81 tuổi. Lễ truy điệu sẽ diễn ra từ 13 đến 15 giờ, ngày 1/2/2013 tại Nhà tang lễ - Bệnh viện 354, phố Đốc Ngữ, quận Ba Đình – Hà Nội. Sau đó đưa đi hỏa táng tại Đài hóa thân Hoàn Vũ – Nghĩa trang Văn Điển – Hà Nội.

            Nhà văn Hoàng Tiến sinh năm 1933 tại Hà Nội. Ông là bộ đội chống Pháp, sau đó chuyển ngành đi học và tốt nghiệp Đại học ngữ văn khóa 3 trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông dạy học, viết báo, viết văn, làm Hội viên Hội nhà văn Hà Nội, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Giảng viên trường Điện ảnh Hà Nội.

            Một số tác phẩm của ông là: Bóng đêm và ánh sáng (tập truyện) 1958, Sương tan (tập truyện) 1963, Hà Nội của tôi (tiểu thuyết tư liệu) 1983, Người đàn bà có khuôn mặt trăng rằm (tiểu thuyết lịch sử) 1991, Có một Hồ Xuân Hương khác (tiểu luận, phê bình và giới thiệu) 1992, Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ 20 (khảo cứu) 1994, Hồn thiêng sông núi (2010), Nguyễn Văn Vĩnh, thân thế và sự nghiệp (khảo cứu), …

            Nhà văn Hoàng Tiến là một trong những người đã lên tiếng rất sớm về tình trạng bi thương của đất nước, về những nỗi bất công sâu sắc trong xã hội Việt Nam hôm nay. Ngay từ những năm 90 của thế kỷ 20, ông đã có những bài viết đấu tranh đòi tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Vì vậy, Nhà cầm quyền cộng sản, thông qua bộ máy công an, đã tìm mọi cách đàn áp, sách nhiễu ông trong hàng chục năm trời như: theo dõi, rình rập; xông vào nhà tịch thu máy tính và các tài liệu dân chủ; nhiều lần đến tận nhà hoặc mời ông tới trụ sở công an để thẩm vấn; ngăn chặn không cho ông đi dự Hội nghị về văn học ở Đài Loan… Nhưng tất cả những việc làm xấu xa đó của công an Việt Nam đều không khuất phục được ông.

           Nhà văn Hoàng Tiến cũng là một trong 118 thành viên ban đầu của Khối 8406, ngay từ khi Khối được thành lập vào ngày 8/4/2006 cho đến nay. Với tấm lòng trong sáng và cuộc sống thanh bạch, giản dị, bất vụ lợi, ông luôn luôn được bạn bè đồng nghiệp và bạn bè đấu tranh dân chủ tin tưởng, kính trọng và quý mến. Sự ra đi của ông là một tổn thất lớn cho phong trào dân chủ Việt Nam và để lại nỗi tiếc thương khôn nguôi trong lòng mọi người.

            Nhân dịp này, các thành viên của Khối 8406 cả trong và ngoài nước xin gửi lời chia buồn sâu sắc tới gia đình nhà văn Hoàng Tiến về sự mất mát lớn lao này. Sự nghiệp còn đó - Chúng tôi còn đây, nguyện cùng với dân tộc đi tới thắng lợi cuối cùng của đại cuộc dân chủ hóa đất nước! Xin vĩnh biệt Nhà văn Hoàng Tiến! Mong ông hãy yên giấc ngàn thu!

            Làm tại Việt Nam, ngày 30 tháng 1 năm 2013.


            Ban điều hành Khối 8406:

1- Linh mục Phan Văn Lợi – Huế – Việt Nam.
2- Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Sài Gòn – Việt Nam.
3- Giáo sư Nguyễn Chính Kết – Houston – Hoa Kỳ.
4- Bà Lư Thị Thu Duyên – Boston – Hoa Kỳ.

            Cùng ký tên: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Cao trào Nhân bản, Sài Gòn, Việt Nam.
            Với sự hiệp thông của Linh mục Nguyễn Văn Lý, cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều tù nhân chính trị, tôn giáo khác đang ở trong lao tù cộng sản.


Tưởng nhớ Nhà văn Hoàng Tiến

            Nhà văn Hoàng Tiến, sinh năm 1933 tại Hà Nội, sau một thời gian lâm bệnh do tai biến mạch não và suy thận, đã qua đời tại nhà riêng lúc 00:50 ngày 28 tháng Một năm 2013. Gia đình kể lại Nhà văn Hoàng Tiến đã ra đi rất chủ động và thanh thản, đúng tinh thần Phật tử.

            Tang lễ Nhà văn Hoàng Tiến sẽ cử hành tại nhà tang lễ bệnh viện 354, phố Đốc Ngữ - Hà Nội, 13:00-15:00, ngày 01/02/2013. Theo di nguyện, thi hài sẽ được hỏa táng tại Đài hóa thân Hoàn vũ Văn Điển và tro hài sẽ táng tại nghĩa trang Yên Kỳ.

            Bạn bè ông kể lại, Hoàng Tiến nhà văn chính thống đã biến thành một người bất đồng chính kiến công khai là vì ông Hoàng Tiến thương bạn, uất ức vì thấy bạn ông (ông Hà Sỹ Phu) bị bỏ tù một cách oan nghiệt vào đầu những năm 1990.

            Giới bất đồng chính kiến, hoạt động dân chủ cách đây khoảng 10 năm, 20 năm, dù già hay trẻ, Bắc hay Nam, đều không thể quên sự chu đáo, nhiệt tình của ông Hoàng Tiến. Gần như bất cứ một “sự cố” nào xảy đến với anh em, đều thấy xuất hiện sự chia sẻ, ủng hộ của “Hoàng Tiến, Nhà văn, Địa chỉ: Nhà A 11 Phòng 420 Thanh Xuân Bắc - Hà Nội.” – những thông tin bất biến ở dưới tất cả những bài viết của ông Hoàng Tiến mỗi khi ông gióng tiếng phản đối những hành động phi pháp, phi nghĩa của chính quyền.

            Còn thân nhân những người trẻ tuổi bị bắt vì tiếng nói phản kháng chế độ vào đầu những năm 2000 tại Hà Nội chắc chắn cũng không bao giờ quên được hình ảnh một ông già gầy nhỏ với chiếc xe máy Chaly xộc xệch, thỉnh thoảng lại lọc cọc một mình hay đi với vài cụ khác, tới nhà thăm hỏi, chia sẻ, động viên trong cái không khí xã hội gần như còn kín bưng – cái thời điện thoại di động cũng hiếm gần bằng Chaly bây giờ.

            Tưởng nhớ ông Hoàng Tiến - một nhà văn, một người bất đồng chính kiến, và hơn hết, một người tín nghĩa với bạn, khảng khái với cường quyền – Như Cây Tre Việt Nam trân trọng đăng lại nguyên văn bài tường thuật đặc sắc về đám tang Tướng Trần Độ do ông Hoàng Tiến viết cách đây gần 11 năm:

Tiếng vỗ tay trong một đám tang

            Đám tang ai mà có chuyện lạ vậy? Xin thưa, đó là đám tang tướng quân nhà văn Trần Độ tổ chức ngày 14-8-2002 tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng số 5 Trần Thánh Tông.

            Trung tướng Trần Độ là một vị lão thành cách mạng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng và Nhà nước cũng như trong tổ chức quân đội, những năm cuối Đảng, bị chính quyền coi là phần tử nguy hiểm, và công an gây nhiều phiền hà.

            Cho nên đám tang ông khiến mọi người rất quan tâm. Nghĩa tử là nghĩa tận. Người ta chú ý xem lãnh đạo cư xử với đám tang ông ra sao?

            Ông mất từ hôm mồng 9-8, việc đưa tin trên báo và tivi rất chậm. Mãi đến ngày 13-8 báo chí mới loan tin, và tối ngày 13-8 cô phát thanh viên trên tivi mới đọc tin tang lễ. Cô vẫn mặc áo màu hoa đẹp hàng ngày, không mặc áo tang đen. Đưa tin sát ngày như thế, thì người các tỉnh xa, trong đó có nhiều đồng đội, đồng nghiệp, và những người ái mộ ông không thể về kịp, vì ngày mai 14 đã lễ tang rồi.

            Ngày 14, từ 8 giờ sáng bắt đầu lễ viếng. Tuy nhiên những người yêu quý ông Độ ở Hà Nội và những tỉnh sát Hà Nội đã về kịp. Họ đi cá nhân, hoặc thành nhóm. Không thấy những viên chức cao cấp đương nhiệm, hoặc các cơ quan đoàn thể đến viếng. Hình như có chỉ thị của Ban Bí Thư (có người nói của Bộ Chính Trị) gửi các cơ quan đoàn thể về tang lễ này, hạn chế sự tham gia.

            Các vòng hoa đề chữ Vô cùng thương tiếc trung tướng Trần Độ bị ách lại từ ngoài cổng. Phải bỏ chữ Vô cùng thương tiếc và quân hàm trung tướng đi. Thắc mắc thì anh em nhà tang lễ giải thích:“Chúng cháu chỉ biết làm theo lệnh ở trên”(!)

            Vòng hoa của đại tướng Võ Nguyên Giáp đề hàng chữ: "Vô cùng thương tiếc trung tướng Trần Độ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp" cũng bị ách lại, đưa vào phòng đợi ngoài cổng, và đề nghị sửa (có anh em chuyên môn sửa ngay). Nghĩa là phải bỏ hàng chữ Vô cùng thương tiếc, và các quân hàm trung tướng, đại tướng, chỉ còn là ông Võ Nguyên Giáp viếng ông Trần Độ. Thư ký của đại tướng là ông Huyên, phản đối. Chuyện đôi co lằng nhằng, hai bên đều phải xin ý kiến cấp trên của mình. Mỗi bên đều xuống thang một chút. Cuối cùng vòng hoa còn là: "Thương tiếc trung tướng Trần Độ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp". Có lẽ (đó) là vòng hoa duy nhất được giữ gần như nguyên vẹn lời viếng. Nhưng khi Ban Tang Lễ gọi loa đọc tên người viếng thì lại gọi là: "Vòng hoa của ông Võ Nguyên Giáp viếng ông Trần Độ".

            Những người đứng đợi trong sân nhà tang lễ, nghe thấy thế, đều xì xào bàn tán. Ông Kim Sơn, một lão thành cách mạng, tham gia từ hồi quân giải phóng, không chịu nổi đã tiến lên cự nự Ban Tang Lễ. Quân hàm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là do Bác Hồ phong. Ai dám tự ý tước bỏ? Sao các anh làm ăn bậy bạ thế? Vòng hoa vẫn đề chữ đại tướng, mà các anh đọc sai đi là nghĩa sao?

            Thì quân hàm trung tướng của ông Trần Độ cũng thế, muốn tước bỏ phải có quyết định của quốc hội hoặc chủ tịch nước. Báo chí vẫn đăng là trung tướng, mà tang lễ lại bỏ đi. Thật chẳng ra làm sao! Rõ là trống đánh xuôi kèn thổi ngược!

            Lại nói đến vòng hoa của thượng tướng Lê Ngọc Hiền đề là đồng chí Trần Độ, cũng bị bỏ đi chữ đồng chí. Chắc sự chỉ đạo ở trên cho rằng, ông Trần Độ đã bị khai trừ khỏi Đảng thì không còn gọi là đồng chí nữa. Nhưng họ đã lầm, theo điều lệnh của quân đội, thì từ binh nhì đến tướng lĩnh đều xưng hô với nhau là đồng chí. Ông Lê Ngọc Hiền mặc quân phục, đeo quân hàm thượng tướng trang nghiêm, đến viếng ông Trần Độ, mà cũng chỉ được giới thiệu trên loa là ông Lê Ngọc Hiền đến viếng ông Trần Độ.

            Trung tướng Nguyễn Hòa cũng quân phục, quân hàm, huân chương đầy đủ và cũng chịu cảnh ngộ như trên.

            Vòng hoa của anh em dân chủ Hải Phòng đề là "Vô cùng kính phục và thương nhớ bác Trần Độ. Các bạn đồng hành ở Hải Phòng" phải sửa thành "Kính viếng bác Trần Độ. Các bạn đồng hành ở Hải Phòng". Vòng hoa cá nhân Vũ Cao Quận, đi cùng đoàn Hải Phòng, đề "Kính viếng lão tướng Trần Độ. Người lính già Vũ Cao Quận" bị giữ lại. Tranh cãi hồi lâu, không có cụm từ vô cùng thương tiếc, không có trung tướng hay đồng chí, lại không có gì sai phạm về ngữ pháp tiếng Việt, vậy cớ gì phải sửa, ai sửa được đúng hơn, xin mời. Mãi rồi cũng được vào.

            Những vòng hoa mẫu mực có băng chữ ghi phải là "Vòng hoa của ông Nguyễn Văn An kính viếng ông Trần Độ", "Vòng hoa của ông Lê Đức Anh kính viếng ông Trần Độ", "Vòng hoa của Văn phòng Quốc hội kính viếng ông Trần Độ ..v..v.. Không thấy vòng hoa của ông Nông Đức Mạnh.

            Chúng tôi để ý thấy nhiều bức trướng chữ vàng trên nền đỏ vẫn đề trung tướng, tướng quân, danh tuớng v.v... không thể gỡ bỏ vì đã thêu bằng chỉ vàng bám chắc trên vải. Trong đó nổi bật bức trướng của các cụ dân chủ, trướng dài khổ to sát đất phải có gậy treo lên, thêu tám chữ vàng "Nhân văn danh tướng. Trung dũng vẹn toàn". Bên dưới ghi tên tuổi các vị kính viếng. Trưởng đoàn là cụ Lê Giản, rồi đến các ông Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang v.v..., hơn hai mươi ông. Mọi người xúm lại xem. Chụp ảnh. Quay phim. Có tiếng gọi bằng máy di động, đề nghị tịch thu. Rồi cũng không thấy gì. Mọi việc vẫn êm trôi. Tịch thu bức trướng trưởng đoàn là cụ Lê Giản thì cũng phiền đấy. Hơn nữa các cụ dân chủ đã đứng vây quanh bức trướng. Công an dùng bạo lực thì lôi thôi to.

            Đoàn của các cụ dân chủ chỉ bị kìm lại thôi. Nhiều đoàn đăng ký sau đã vào trước. Ban tang lễ gây khó khăn cho các cụ phải đứng chờ dưới bóng cây, nắng chang chang, nhưng lại có cái hay là nhờ thế, mọi người hết tốp này tốp khác đến chiêm ngưỡng, bàn tán về các bức trướng. Bức trướng của nhà nghiên cứu Trần Khuê bị quản chế từ Sài Gòn gửi ra:

            Công thần không làm phách
            Danh toại chẳng cầu nhàn
            Bút thần vung mấy độ
            Ðáng mặt đại nghĩa quân.

            (Ta chú ý bài thơ có chữ phách và chữ độ. Tên khai sinh là Tạ Ngọc Phách, tên tham gia cách mạng là Trần Độ).

            Bức trướng của nhà thơ Bùi Minh Quốc bị quản chế từ Đà Lạt gửi ra, người anh ruột là cụ Bùi Minh Đức gần 90 tuổi, cựu chiến binh chống Pháp, thay mặt em mang đến:

            Vì đại nghĩa nhân chân, thân mấy độ trần thân
            Tướng dẫu không nguyên giáp, hồn vẫn vẹn tình dân.

            (Tạm dịch: Người chân chính vì nghĩa lớn, cái thân mình bị mấy lần vùi dập Viên tướng không còn nguyên giáp, tâm hồn ông vẫn trọn vẹn tình dân).

            Bức trướng của tiến sĩ khoa học Hà Sĩ Phu cũng bị quản chế, từ Đà Lạt gửi ra, viết bằng chữ Hán, do các cụ trong nhóm thư pháp Cảo Thơm thực hiện:

            Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm.
            Bắc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng nhất đan tâm.

(Câu đối vế trên có Trần vế dưới có Độ. Trung tướng phong trần là trung tướng gian nan, lại có thể hiểu là ông Trần được phong trung tướng. Đại quân tế độ là đội quân cứu đời, tức quân giải phóng miền Nam. Đây nhắc đến việc ông Trần Độ là phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam. Vậy câu đối trên có thể tạm dịch là:

            Văn võ dọc ngang, ông Trần được phong hàm trung tướng, việc đời hai vai gánh vác hai trách nhiệm lớn;

            Nam Bắc vào ra, tướng Ðộ chỉ huy quân giải phóng, cứu nước một gậy trường sơn một trái tim hồng).

            Bức trướng của nhóm Cảo Thơm trên nền giấy bồi khổ lớn đề 3 chữ đại tự "Vị dân tâm"(Tấm lòng vì dân), với hàng phụ đề bằng những câu thơ chữ Hán ca ngợi tướng quân Trần Độ. Ông Tú Sót mái đầu bạc phơ, trong nhóm thư pháp Cảo Thơm, luôn miệng giải thích cho mọi người rõ nghĩa:

            Vô tình vị tất chân hào kiệt
            Hữu độ phương vi đại trượng phu

            (Nghĩa là: Sống vô tình (như chủ nghĩa MACKENO (Mặc-kệ-nó) bây giờ), không phải là người hào kiệt. Có đức độ (vì dân vì nước) mới đáng mặt gọi trượng phu).

            Lại nghe được tin, cụ Độ vừa mất, công an đến đòi khám nhà, không có lệnh. Bà Độ phản đối. Công an đe dọa những người con, bắt hai con trai lên đồn, gây căng thẳng. Cuối cùng gia đình phải nộp 5 thùng sách vở của cụ Độ. Mọi người nghe tin đều phẫn nộ. Quá thể! Gia đình người ta đang tang gia bối rối. Thật nhẫn tâm!

            12 giờ 15 phút, lễ truy điệu bắt đầu. Giới thiệu vị đại diện Văn phòng Quốc hội là ông Vũ Mão đọc điếu văn. Ông Mão có nhắc đến lý lịch, quê quán, ngày sinh, quá trình tham gia cách mạng và những chức vụ ông Trần Độ đã đảm nhiệm. Phần hai, ông ta nói rất tiếc là ông Trần Độ cuối đời đã mắc những lỗi lầm nghiêm trọng... Phần hai tuy không dài, nhưng cả hội trường lặng đi. Không khí như nén lại, ngột ngạt.

            Đến mục gia đình lên đáp từ, người con trưởng cụ Độ là anh Thắng, sau khi kể những tình cảm về người bố, và sau khi cám ơn tất cả các cụ, các ông, bà, chú, bác, các anh chị... đến tham dự tang lễ, lời cuối của bài đáp từ là câu: "Tôi thay mặt gia đình xin phép không tiếp nhận lời điếu của vị đại diện Văn phòng Quốc hội" (Chưa bao giờ lại có chuyện như vậy, tang gia khước từ lời điếu của chủ lễ !!??).

            Như một kho thuốc nổ được châm ngòi, cả hội trường vỗ tay ran lên tán đồng. Tiếng hoan hô lẫn tiếng vỗ tay nổi lên càng to, kéo dài không ngờ, như hội bắn pháo hoa. Các đợt liên tiếp cao hơn, to hơn, dài hơn, càng âm vang cộng hưởng hết cỡ trong vòm nhà hội trường tang lễ. Có cảm tưởng như nóc hội trường sắp bật tung. Nhiều tiếng hét đến lạc giọng, nghe không rõ. Loáng thoáng những từ hoan hô! phản đối! ngu dốt! bất nhân!... lẫn trong những tràng vỗ tay rền vang như sấm động.

            Những uẩn ức trong lòng mọi người bị dồn nén từ sáng đến giờ được dịp nổ tung. Tôi phải trèo lên chiếc ghế, đưa tay lên vành tai, nghiêng đầu lắng nghe. Một người hét to, giọng như người miền núi, tay giơ lên chỉ chỉ vào chiếc khung đen có hàng chữ Lễ tang ông Trần Độ ở trên cao, dưới là chiếc ảnh bán thân của ông mặc thường phục: “Ai cho phép chúng nó bỏ hàng chữ Vô cùng thương tiếc đi. Chúng nó không vô cùng thương tiếc, nhưng chúng tôi vô cùng thương tiếc...”

- Thật là bọn ăn cháo đá bát.
- Không có tướng Trần Độ và anh em chúng tôi thì làm sao có chúng nó ngày nay.
- Nghĩa tử là nghĩa tận, không có ai đi kiểm điểm người chết trước linh cữu cả.
- Chuyện này cổ kim chưa thấy bao giờ.
- Mà đã chắc là ai đúng, chắc là ai sai? Quan tòa là nhân dân.
- Chúng nó phỉ báng lên truyền thống dân tộc.

            Nơi này, chỗ kia, ầm ầm những tiếng thét, tiếng quát tháo: Bọn phản nhân dân! Phản bội đường lối Hồ Chí Minh! Phản văn hóa! Đề nghị Bộ Chính trị phải nghiêm trị!

            Có ai nói khẽ: “Đây là chỉ đạo của Bộ Chính trị”.

            Tiếng quát to: “Nói láo! Bộ Chính trị sáng suốt, không làm điều ngu dốt như thế. Nói thế là không đúng”.

            Có ai đó lại hô lên: “Trần Độ muôn năm!”.

            Nhân viên an ninh mặc thường phục vây quanh những người quá nóng nảy, đề phòng. Có tiếng hỏi: “Vũ Mão đâu? Vũ Mão đâu?”.

            “Hắn chạy rồi! Lủi ra xe rồi!” Thật là may cho Vũ Mão. Hắn ta đứng đực ra, mặt chảy xị, tái xám, ngơ ngác. Có ai giục, hắn như chợt tỉnh, vội lách ra phía sau, chuồn mất.

            Cũng may cho đám tang nữa. Sự tức giận của khối người đông đảo trong hội trường này, mà túm được Vũ Mão, thì không biết rồi những gì sẽ xảy ra.

            Các cụ dân chủ đều biết kìm mình. Trước đám tang vài ngày, cơ quan an ninh đã cử người đến dò la thái độ các cụ. Lo sợ các cụ dân chủ lợi dụng chiếm diễn đàn, cướp mi-crô, gây ra căng thẳng. Các cụ đã tin lại cho công an biết. Chỉ có đầu óc ngu tối mới nghĩ như thế. Những người yêu quý ông Độ, ai lại muốn phá rối đám tang. Chính lúc các cựu chiến binh, các lão thành cách mạng, bừng bừng nổi giận, thì các ông dân chủ lại bình tĩnh, tìm cách khuyên can, chứ không có thái độ quá khích nào cả.

            Toàn là những người hiểu biết. Sự nóng giận liền dịu xuống. Tang lễ lại tiếp tục. Mọi người đều đứng rẽ ra hai bên làm thành một con đường để đội danh dự mặc lễ phục trắng khiêng linh cữu trong nhà tang lễ ra xe ô tô đã đỗ ở giữa sân. Lúc này nắng lắm!

            Một số phóng viên người nước ngoài tranh thủ phỏng vấn, ghi âm mấy cụ còn chưa nguôi cơn giận.

            Ai cùng đi đến nghĩa trang Hoàn Vũ (hỏa táng) thì lên xe. Tôi chậm chân nên xe tang đã ra ngoài cổng rồi, tôi vẫn còn trong sân để xe đạp xe máy. Gặp chị Ngọc, vợ ông Hoàng Minh Chính, hỏi tôi có đi nghĩa trang? Tôi trả lời sẽ đi bằng xe máy. Chị khuyên tôi nên đi ôtô, đỡ mệt. Các ông ấy đều lên ôtô cả. Tôi chạy vội ra cổng, thì đoàn xe đã đi xa. Lại gặp các cụ dân chủ đứng túm lại ở đầu cổng. Hỏi ra mới rõ, xe còn rộng chỗ lắm, nhưng lái xe không chịu mở cửa cho các cụ lên (đều do công an lái xe). Một cử chỉ nhỏ nhen! Các cụ bèn quyết định thuê tắc-xi đi.

            Trên xe, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang nhận định một cách tổng quát: “Chúng nó đểu một cách rất ngu, và đểu đến từng chi tiết". Nhà báo đại tá chính ủy Phạm Quế Dương lại cười hề hề:“Trò đùa ấy mà! Có gì đâu!".

            Xe tắc-xi chạy nhanh, bám kịp đoàn xe tang lễ. Quả thật, nhiều xe rất vắng, mang biển số 80B. Biển số này là của công an, nhiều người biết. Hai xe cam-nhông chở đầy vòng hoa viếng, những vòng hoa bên ngoài đều bị bóc hết các băng chữ. Lại nhỏ nhen!

            Dự hỏa táng xong, trở về nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thì đã gần 3 giờ chiều. Chúng tôi lấy xe ra về, người mệt nhoài, vì nóng, vì nắng. Rủ nhau vào uống giải khát để lấy sức ngày mai còn đưa hài cốt hỏa táng cụ Độ về Thái Bình.

Sẩm tối mới về tới nhà, đã thấy mấy ông bạn cựu chiến binh đón từ đầu đường hỏi về chuyện đám tang ông Trần Độ. Thì ra chuyện ở đám tang trưa nay đã đồn ầm lên trong dân chúng. Giấu làm sao được nhân dân! Che làm sao được miệng thế gian! Và bản tin chiều của hãng BBC mãi tít nước Anh đã đưa tin về đám tang. Có cả tiếng nói của cháu Thắng và tiếng vỗ tay rền vang như sấm. Nhanh thật! Trái đất cùng chung một mái nhà.

Vài lời kết thúc:

Sáng sớm hôm sau (15-8-2002) chúng tôi tập trung tại 37 Lý Nam Đế, nhà ông Phạm Quế Dương, để di Thái Bình cho trọn tình trọn nghĩa. Công an mật đã đến lởn vởn trước cổng, từ 5 giờ sáng.

Chúng tôi gọi tắc-xi, đúng 6 giờ 30 sáng lên đường. Nhìn sang lịch ta là ngày mồng 7. Ông cha ta dạy: “Chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3”. Chúng tôi biết là chuyến đi này sẽ gặp trắc trở đây.

Quả không sai, quãng đường hơn 100 km về quê cụ Độ bị 4 lần ách xe. Công an giao thông kiểm soát giấy tờ lái xe, phương tiện xe cộ có an toàn, để đảm bảo cho khách đi đường được yên tâm. Lại còn điều tra một tai nạn xe cộ, lái xe bỏ chạy, là một trong 300 chiếc tắc-xi của hãng này. Màu sơn này. Nên công an chúng cháu phải làm nhiệm vụ, mong các cụ thông cảm. Lần ách xe ở đất Thái Bình lâu nhất, mất gần 2 giờ đồng hồ. Đến nơi thì đã 1 giờ 30 chiều, tang lễ hạ huyệt đã xong. Tổng cộng mất hơn 7 tiếng đồng hồ mới đi nổi quãng đường hơn 100 km. Mọi người đang ăn cỗ. Phong tục nông thôn bà con xa gần kéo đến rất đông.

            Chúng tôi thắp hương, dâng lễ vật ở bàn thờ gia đình và bàn thờ ông Trần Độ. Lại phải ngồi ăn cỗ, thôi thì chiều nay ra mộ thắp hương trước khi về.

            Được gặp con cái cụ Độ, chúng tôi tranh thủ tìm hiểu việc công an định khám nhà và lấy đi 5 thùng sách báo. Các cháu đều trả lời lấp lửng, không rõ ràng, hình như e ngại điều gì. Gặp cháu Thắng, con trai trưởng, người đã nói được câu tuyệt vời hôm qua, thì hôm nay cũng không đậm đà bắt chuyện, muốn lảng tránh câu hỏi. Có thể tối qua cơ quan nơi cháu làm việc họ đã ấn huyệt. Thôi, thông cảm cho các cháu. Các cháu cần làm ăn, cuộc đời các cháu còn dài.

            Được biết thêm, có cả thảy 220 vòng hoa tang lễ ở Hà Nội. Các băng chữ bị lấy hết, gia đình chỉ giữ được 7 băng. Gia đình đòi lại được 5 cuốn sổ tang, một số trang bị xé rách.

            Toàn là những cử chỉ nhỏ nhen!

            Ngôi mộ ông Trần Độ được nằm cạnh ngôi mộ bà mẹ. Đó là ý nguyện của ông. Đây là nghĩa trang xóm làng, mỗi gia đình được một khoanh đất, để chôn cất những người thân trong gia đình. Ông Độ đã trở về với bà con xóm làng. Mộ ông cũng rất bình thường, như mọi ngôi mộ ở đây. Nằm ở đây thì yên ổn rồi, ấm lòng rồi. Chúng tôi tin chắc là ông Trần Độ rất thanh thản. Nhớ đến một đoạn thơ của ai đó:

            Sống tranh luồn cúi vào ra,
            Chết còn xí cả (cái) nhà mồ to
            Phải là những bậc anh hào,
            Sống thiêng - chết lại đi vào trong dân,
            Mả to bia nhớn chẳng cần...

            Những ngày tang lễ ông Trần Độ
            Hà Nội, tháng 8-2002
            Hoàng Tiến, nhà văn.
            Địa chỉ: Nhà A 11 Phòng 420
            Thanh Xuân Bắc- Hà Nội.○