Thứ Bảy, 15 tháng 4, 2017

30 - 04, 1975 THỜI KHẮC LỊCH SỬ KINH HOÀNG VÀ ĐEN TỐI NHẤT CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM...








         SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU






Đỗ Minh Tuyến

Hàng năm cứ đến thời khắc lịch sử này của ngày 30 tháng 04...là đồng bào Việt Nam sống trong và ngoài nước đều trải qua những cảm giác chung thiêng liêng khó lòng gột tả... Hình ảnh oai hùng của các sỹ quan chiến sỹ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vốn luôn tiềm ẩn trong lòng mọi người chợt hiện về... và biết bao ấn tượng tốt đẹp cả vui lẫn buồn của những con người vì nước quên thân... vì đồng bào ruột thịt của mình không quản ngại gian nan khốn khó cầm chắc tay súng bảo vệ từng tấc đất, và từng hơi thở của đồng bào Việt Nam... và cũng vì trách nhiệm và danh dự của Tổ quốc Việt Nam... các Anh đã ngã xuống...đã dùng chính dòng máu nhiệt huyết của mình tưới lên lòng đất Mẹ...cũng như tô thắm cho lá Quốc kỳ bao đời vinh quang của đất Việt Nam. Và cũng vì trách nhiệm thiêng liêng cao cả và danh dự ngàn đời của các chiến sỹ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa... các Anh đã chọn cho mình con đường tuẫn tiết đầy cao ngạo... Thà chết một cách oai hùng chứ quyết không để rơi vào bàn tay tàn ác của những người cộng sản. Chúng ta hãy dành một phút mặc niệm để tri ân công lao to lớn của các Anh... để thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay hiểu đúng và hiểu rõ hơn về những người con hào hùng của Quê hương Đất nước  ... vốn muôn đời được ghi tên trong lịch sử vàng son của Tổ quốc Việt Nam.

Ngày 30 tháng 04 cũng chính là thời khắc nhắc nhở mọi người dân Việt Nam chúng ta... đặc biệt là đồng bào của miền Nam Việt Nam thân thương hoài niệm về thời điểm đen tối nhất của Đất nước... khi cộng sản Bắc việt chà đạp lên những cam kết của họ đã ký trong Hiệp định Hòa bình Paris 1973 (Hiệp định Ba Lê) cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam... sau cái gọi là giải phóng và thống nhất Đất nước, hàng triệu cựu Quân Cán chính của Chính thể Việt Nam Cộng Hòa đã bị trả thù, bị hành hạ một cách khốc liệt tàn bạo và dã man trong các nhà tù dưới cái danh xưng hết sức mỹ miều của chế độ độc tài cộng sản Việt Nam được gọi là "Trại cải tạo"... thực chất đó chính là nơi các cán bộ cộng sản, những con người rừng rú man rợ thực hiện mọi hành vi dã man và vô nhân tính nhất đổ trên đầu các cựu Quân Cán chính Việt Nam Cộng Hòa mà chúng gọi là "Ngụy quân và Ngụy quyền". Hàng trăm ngàn trong số họ sau nhiều năm chịu đựng sự hành hạ tàn bạo cuối cùng đã phải bỏ mình trong các ngục tù khủng khiếp đó. Bên cạnh đó, người thân của họ cũng không được yên thân, dưới cái gọi là "Đánh tư sản"...Nhà cửa tài sản đất đai của mọi người đã bị tịch thu và bản thân họ bị buộc đến sinh sống tại các vùng kinh tế mới... đói khổ và chết chóc chính là nguyên nhân dẫn đến hàng triệu triệu người dân đã phải liều mạng sống mình rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn chạy trốn chế độ cộng sản... và hàng trăm ngàn người trong số hàng triệu người vượt biển đã bị nhấn chìm một cách đáng thương dưới đáy Đại dương.
Ngoài ra, cũng từ thời khắc lịch sử đen tối nhất của ngày 30 tháng 04, 1975 đã luôn nhắc nhở mọi người dân Việt Nam chúng ta rằng  ... Việt Nam từ một Đất nước hào hùng với bốn ngàn năm Văn hiến... từ một miền Nam Việt Nam sáng ngời được Thế giới biết và nhắc đến với cái tên gọi thật hãnh diện là "Hòn ngọc Viễn đông"... bổng chốc đã trở nên một Xã hội Việt Nam đầy bất ổn, đầy dẫy bạo lực... Một Đất nước Việt Nam được cai trị bởi một tập đoàn cộng sản ươn hèn và tàn ác... chỉ biết tham nhũng, chỉ biết quyền lực và lợi ích bản thân đã đi ngược lại lợi ích của Đất nước và quyền lợi của người dân... Một Đất nước Việt Nam Tự do Dân chủ và Nhân quyền bổng chốc trở thành một Đất nước một Quê hương đau khổ... Ở nơi đó, người dân có mắt mànhư mù, có tai mà như điếc và có miệng mà như câm không được phép nói bất cứ điều gì dù đó là sự thật, dù đó là những điều hiển nhiên đang xảy ra hàng ngày trong Xã hội và trên Quê hương Đất nước... Một Đất nước có chủ quyền mà phải cúi lạy kẻ thù xâm lược... Một Đất nước được mệnh danh là một Đất nước pháp quyền... mà luật pháp và Hiến pháp của Nhà nước bị chà đạp một cách trắng trợn và thảm hại... một Nhà nước mà quân đội và công an luôn đứng về phía kẻ thù quay lưng lại với người dân một cách hết sức tàn nhẫn... Tưởng nhớ về biến cố lịch sử 30 tháng 04 cũng là cách duy nhất nhắc nhở mọi người dân Việt Nam trong và ngoài nước... hãy thật sự cùng nhau đoàn kết, cùng quy về một mối để tìm ra phương cách hữu hiệu nhất nhằm sớm giải thể chế độ độc tài cộng sản tàn bạo và vô nhân hiện nay tại Việt Nam.



LỊCH SỬ HÀO HÙNG CỦA MỘT SỐ SỸ QUAN QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA TIÊU BIỂU... VÌ DANH DỰ VÀ TRÁCH NHIỆM ĐÃ TUẪN TIẾT SAU NGÀY MIỀN NAM RƠI VÀO TAY CỘNG SẢN BẮC VIỆT 30/04/1975.



                                             




Nguyễn Khoa Nam (1927-1975), nguyên là Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng IV Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.

Nguyễn Khoa Nam sinh ngày 23 tháng 9 năm 1927 tại Đà Nẵng. Năm 1953 ông nhập ngũ Khóa 3 Thủ Đức và gia nhập binh chủng Nhảy dù vào tháng 10 cùng năm. Từ 1955 đến 1964, Nguyễn Khoa Nam mang lon đại úy. Năm1965 ông lên quân hàm thiếu tá và giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù.
Năm 1967, Nguyễn Khoa Nam được thăng cấp trung tá và được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng của Lữ đoàn 3 Nhảy dù. Cuối năm này ông được thăng đại tá. Năm 1969 ông giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, kiêm Tư lệnh Khu Chiến thuật Tiền Giang. Tháng 11 cùng năm ông được thăng chuẩn tướng. Năm 1972 ông được thăng thiếu tướng.
Tháng 11 năm 1974, Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng IV Chiến thuật đến năm 1975.
Khi xảy ra sự kiện 30 tháng 4, 1975, Nguyễn Khoa Nam vận bộ lễ phục trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dùng súng Browning bắn vào màng tang tự sát vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975[1]. Thi thể ông được an táng trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ, đến năm 1994 thì được hỏa thiêu, tro cốt để tại chùa Quảng Hương Già Lam, địa chỉ số 498/11 đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, TP.Hồ Chí Minh.
Nguyễn Khoa Nam là một phật tử thuần thành, ông thường nghiền ngẫm kinh Phật, sách triết học và Nho học. Nguyễn Khoa Nam là một quân nhân thuần túy không xen vào chính trị, có cuộc sống giản dị, không xa hoa, không bị tai tiếng tham nhũng và được binh sĩ yêu mến.[2]


Phạm Văn Phú (1929-1975) nguyên thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn II Vùng II Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
Ông sinh năm 1929 tại Hà Đông.
Năm 1953, Phạm Văn Phú tốt nghiệp Học viện Võ bị Liên quân Đà Lạt khóa 6, sau đó phục vụ trong binh chủng Nhảy dù của quân đội Liên Hiệp Pháp.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã từng bắt nhịp bài La Marseillaise (Quốc ca Pháp) cho lính Quốc gia Việt Nam vừa hát vừa xông lên phản kích ở đồi C1 nên được các sĩ quan Pháp cảm kích. Khi Điện Biên Phủ thất thủ, Việt Minh bắt giam cùng với Bréchignac, Botella, Clédic, Mackowiak và nhiều quân nhân khác.[1]
Sau Hiệp định Geneve, ông được trao trả và phục vụ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1962, Phạm Văn Phú thăng cấp Thiếu tá và giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn Quan sát 77 Lực lượng Đặc biệt.
Năm 1964, Phạm Văn Phú được thăng Trung tá và giữ chức Tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt.
Năm 1966, được thăng cấp Đại tá, giữ chức Tư lệnh Phó Sư đoàn 2 Bộ binh sau đó làm Tư lệnh Phó Sư đoàn 1 Bộ binh.
Năm 1968, Phạm Văn Phú được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 và năm 1969 được thăng cấp Chuẩn tướng.
Năm 1970, ông giữ chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và sau đó được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
Năm 1971, ông được thăng Thiếu tướng. Năm 1974, Phạm Văn Phú giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II Vùng II Chiến thuật.
Tháng 3/1975, chiến dịch Tây Nguyên của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh sụp gần như hoàn toàn Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Tây Nguyên. Phạm Văn Phú bị triệu về Sài Gòn và ông cáo bệnh không ra trình diện.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Phạm Văn Phú tự sát bằng cách uống một liều thuốc cực mạnh, được gia đình đưa vào bệnh viện Grall và chết vào trưa ngày 30 tháng 4, sau khi Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.


Lê Văn Hưng : chuẩn tướng (Tư lệnh phó Quân đoàn IV, Vùng IV Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hoà), là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
Ông sinh ngày 27 Tháng 3 năm 1933 tại Hóc Môn.
Sau khi tốt nghiệp khóa 5 (Vì Dân) Sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 1 năm 1955, Lê Văn Hưng trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn tại chiến trường miền Tây Nam phần.
Năm 1966 ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 31 bộ binh. Thời gian này Lê Văn Hưng được các phóng viên chiến trường gọi là một trong ngũ hổ (năm con hổ) U Minh Thượng
Năm 1967 ông thăng cấp Trung tá rồi Đại tá năm 1968. Hai năm sau ông được bổ làm tỉnh trưởng Phong Dinh.
Năm 1971 Lê Văn Hưng được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh
Năm 1972 ông được thăng cấp chuẩn tướng giữ chức tư lệnh phó Quân khu 3 sau khi chiến thắng chiến trường An Lộc.
Năm 1973 Lê Văn Hưng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ Binh,
Năm 1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 4
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại văn phòng Tư lệnh phó ở bộ chỉ huy của Quân đoàn 4, sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt tất cả binh sĩ bảo vệ bộ chỉ huy, người được gọi là "Anh hùng tử thủ An Lộc" do những chiến tích trong Trận An Lộc đã dùng súng lục bắn vào tim tự sát vào lúc 20 giờ 45.


Lê Nguyên Vỹ (1933-1975) chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
Ông sinh ngày 22 Tháng 8 năm 1933 tại Sơn Tây.
Năm 1951 ông theo học khóa 2 (Lê Lợi) trường Võ bị Địa phương Huế đến năm 1965 thì thăng Thiếu tá.
Ông tham gia trong chiến trường An Lộc tử thủ căn cứ chỉ huy. Sau khi chiến thắng, Lê Nguyên Vỹ được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Năm 1974, Lê Nguyên Vỹ được thăng chuẩn tướng sau khi học một khóa học chỉ huy và tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ và giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh .
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi nghe nhật lệnh của tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó và chờ quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Namđến bàn giao. Lê Nguyên Vỹ ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Sau đó Lê Nguyên Vỹ dùng khẩu Beretta 6.35 bắn vào đầu tự sát ở bộ tư lệnh Lai Khê.
Thi thể Lê Nguyên Vỹ được an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh, sau đó được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông TâyGò Vấp.
Năm 1987, hài cốt Lê Nguyên Vỹ được thân mẫu (mẹ) hỏa thiêu và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây.
Lê Nguyên Vỹ được đánh giá là một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và là một chỉ huỵ bộc trực, thanh liêm, chống tham nhũng. Ông là một trong những vị tướng hiếm hoi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ.[1]


Trần Văn Hai (1929-1975) chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong năm tướng lĩnh đã tuẫn tiết trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai sinh Tháng Giêng năm 1929 tại Cần Thơ.
Năm 1951, Trần Văn Hai tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt với cấp thiếu úy.
Năm 1960, Trần Văn Hai được gởi sang thụ huấn khóa Chỉ huy và Tham mưu Cao cấp tại Hoa Kỳ.
Năm 1963, Trần Văn Hai được thăng thiếu tá và giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Dục Mỹ.
Năm 1965, Trần Văn Hai được thăng trung tá và bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên.
Năm 1968, Trần Văn Hai giữ chức Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc Gia thay Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan.
Năm 1970, Trần Văn Hai rời ngành cảnh sát với cấp bậc Chuẩn tướng để giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44.
Năm 1971, Trần Văn Hai giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Động Quân một lần nữa.
Năm 1972, Trần Văn Hai được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Phó Hành Quân của Quân đoàn Đoàn II và Quân khu 2 đặc trách biên phòng.
Năm (1973), Làm chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam-Sơn Kiêm Chỉ huy trưởng Huấn Khu Dục-Mỹ (Tỉnh Khánh Hòa),Quân Đoàn II.
Năm 1974, Trần Văn Hai được bổ nhiệm chỉ huy Sư đoàn 7 Bộ Binh Thay thế thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.
Trước sự kiện 30 tháng 4, 1975 khoảng hơn một tuần, đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn Tướng Hai di tản nhưng ông từ chối.[1]Chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi cho binh sĩ rời quân ngũ theo lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh, Trần Văn Hai đã dùng thuốc độc tự vẫn trong phòng làm việc tại căn cứ Đồng Tâm. Thi thể ông được mẹ đem về mai táng tại Gò Vâp.
Trần Văn Hai được đánh giá là một tướng thanh liêm, chăm lo tốt đời sống binh sĩ thuộc quyền.[1]


Hồ Ngọc Cẩn (1938-1975) là một Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù có lệnh củaTổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh ra lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng, ông vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào tiếp quản. Ông cuối cùng cũng bị bắt và bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.
Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần Thơ. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong Quân đội Quốc gia Việt Nam. Khi ông bắt đầu đi học năm (1945) thì Chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học Trường Thiếu sinh quân Đệ nhất quân khu ở Gia Định. Ông được thu nhận vào lớp Nhì niên khóa 1951-1952, học theo chương trình Pháp và đỗ tiểu học năm 1952.
Cuối năm 1952, trường sở chuyển từ Gia Định về Mỹ Tho. Ông tiếp tục theo học ở đây cho đến năm 1955.
Năm 17 tuổi, ông được gửi lên học tại Liên trường võ khoa Thủ Đức, chuyên ngành vũ khí, niên khóa 1955-1956. Sau 3 tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu[cần dẫn nguồn]. Sáu tháng sau đó, ông lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa với cấp bậcBinh nhì. Sau 9 tháng sau, ông được thăng cấp bậc Trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.[cần dẫn nguồn]
Vào những năm 1960-1961, ông được nhập học khóa đào tạo sĩ quan đặc biệt nhằm giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan của Quân đội Việt Nam Cộng hòa và tốt nghiệp với Cấp bậc chuẩn úy. Sau khi ra trường, ông tiếp tục được cử theo học một khóa huấn luyện Biệt động quân, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại Tiểu đoàn 42 Biệt động quân với chức vụ Trung đội trưởng, thuộc Khu 42 chiến thuật. Do lập được nhiều công lao, ông nhiều lần được thăng cấp đặc cách tại mặt trận, lên đến cấp Trung úy và được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 42.[cần dẫn nguồn]
Cuối năm 1966, ông được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 33, Sư đoàn 21 Bộ binh. Năm 1968, nhờ có nhiều công lao trong Sự kiện Mậu Thân, ông được thăng hàm thiếu tá và đươc xem là người có nhiều huy chương nhất quân đội.[cần dẫn nguồn]
Năm 1970, ông được thăng hàm Trung tá và được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 15, Sư đoàn 9 Bộ binh. Năm 1972, ông cùng Trung đoàn 15 được lệnh tham gia Trận An Lộc. Cuối năm 1973, ông bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng, kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện với cấp bậc Đại tá.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù có lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh ra lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng, ông vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào tiếp quản. Cuối cùng ông bị bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.




LỊCH SỬ

TRUNG TÁ CẢNH SÁT QUỐC GIA NGUYỄN VĂN LONG
 BẢO QUỐC CÔNG THẦN
















1 nhận xét: