Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

CHÀ ĐẠP QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM DIỄN RA... NGAY TRƯỚC THỜI ĐIỂM PHIÊN KIỂM ĐIỂM ĐỊNH KỲ PHỔ QUÁT NHÂN QUYỀN (UPR) CỦA VIỆT NAM NGÀY 05-02-2014









                                SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU





Do Minh Tuyen

Nhân quyền của người dân Việt Nam ở đâu...? chính là điều mà Cộng đồng Quốc tế hiện nay đang muốn biết... và sẽ biết qua phiên Kiểm định Phổ quát Nhân quyền Định kỳ (UPR) của Việt Nam vào ngày 05-02-2014 tới đây tại Geneva (Thụy Sĩ). Tuy nhiên, đó chỉ là đối với Cộng đồng Quốc tế ... còn riêng đối với người dân Việt Nam thì câu trả lời dường như đã có sẵn và hiện hữu từng ngày từng giờ trong một đất nước vốn được xem là "Thiên đường Xã hội Chủ Nghĩa"... được định hướng theo chủ thuyết cộng sản và Tư tưởng Hồ Chí Minh... dưới sự lãnh đạo tài tình của các vị lãnh đạo đảng và giới cộng sản cầm quyền hiện nay tại Việt Nam. Một đất nước Việt Nam Tự do thật sự đúng nghĩa... khi giới lãnh đạo cầm quyền tự do hành xử theo ý muốn của mình bất chấp luật pháp, hiến pháp Quốc gia và bất chấp luật pháp, công pháp Quốc tế... trong lúc người dân thì hoàn toàn được tự do lựa chọn cuộc sống cũng như cách sống của mình... là "Nhà tù"... hoặc ngoan ngoãn chấp nhận cuộc sống hiện tại...!!!

Hiện thực cho thấy... quyền con người mà thế giới định hình dường như chỉ có trong những giấc mơ của người dân Việt Nam mà thôi. Mặc dù đã được chính các vị lãnh đạo Nhà nước cộng sản Việt Nam cam kết... mặc dù đã được chính tay các vị lãnh đạo quốc gia cộng sản này ký kết hết văn kiện này đến văn kiện khác...  hết Công ước này đến Công ước khác... và thậm chí là ngay cả đã được bầu vào một ghế của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc... nhưng thực tế, quyền con người tại Việt Nam vẫn chỉ luôn hiện diện trên giấy và nằm trên miệng của các vị lãnh đạo Nhà nước cộng sản Việt Nam. Việc Nhà báo Độc lập, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng mới đây bị Nhà cầm quyền cản trở không cho phép đến Geneva Thụy Sĩ tham dự buổi điều trần theo lời mời của UN Watch, một Tổ chức Phi chính phủ với chức năng giám sát nhân quyền và dân chủ thuộc Liên Hiệp Quốc... trong khi quyền tự do đi lại bao gồm cả việc xuất nhập cảnh của công dân... đã được luật pháp và hiến pháp của Việt Nam cũng như công pháp Quốc tế quy định, thừa nhận và bảo hộ.

Việc xuất cảnh của Nhà báo Phạm Chí Dũng đến Geneva Thụy Sĩ là có sự chứng kiến và hậu thuẫn mạnh mẽ từ Liên Hiệp Quốc, trong đó bao gồm cả Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ... mà Việt Nam còn ngang nhiên cấm cản... thì những sự việc xảy ra từ trong nước không có sự mục kích giám sát của Cộng đồng Quốc tế...  thì số phận của người dân ra sao có lẽ mọi người cũng đều đã hiểu. Ngang ngược, tàn bạo và bẩn thỉu... đó là bản chất cố hữu của chế độ cộng sản Việt Nam, nhưng không lẽ người dân Việt Nam và Cộng đồng Quốc tế không còn phương cách giải quyết và mãi mãi đứng nhìn Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đi từ sai lầm này đến sai lầm khác... ? Đã đến lúc Cộng đồng Quốc tế cần phải quan tâm và tạo áp lực nhiều hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa trong việc buộc Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải triệt để tuân thủ mọi cam kết của họ đối với Quốc tế liên quan đến quyền con người tại Việt Nam... cũng như hành xử đúng với vai trò và trách nhiệm của họ trong vị trí thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ngày hôm nay. Và người dân Việt Nam, hãy cùng nhau là chiếc cầu nối mạnh mẽ tố cáo và phơi bày những việc làm sai trái và hành vi chà đạp nhân quyền của chế độ cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện nay ra  trước công luận.




Bản Tin










Nhà báo Phạm Chí Dũng khiếu nại việc ngăn chặn ông xuất cảnh


VRNs (05.02.2014) – Sài Gòn – Hôm nay, từ Sài Gòn, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng đã gởi thư khiếu nại đến ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và quý ông khác trong chính phủ có trách nhiệm trực tiếp trong việc ngăn chặn ông xuất cảnh để đi Geneve.
VRNs xin đăng lại Thư khiếu nại này đã được facebooker Lanney Tran, để quý vị được tường.
—-
140205002Kính gửi: Ngài Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng chính phủ
Đồng kính gửi: Ngài Phạm Bình Minh – Phó thủ tướng chính phủ kiêm Bộ trưởng ngoại giao
Ngài Trần Đại Quang – Bộ trưởng Bộ Công an
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 2 năm 2014
Sau vụ việc bị ngăn chặn xuất cảnh ở sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày 1/2/2014, cho đến giờ tôi vẫn không dám thật sự nghi ngờ rằng chính những người trong chính giới cấp cao của Chính phủ Việt Nam đã tìm cách “dập tắt tiếng nói” của tôi – như cụm từ mà UN Watch (Tổ chức giám sát nhân quyền thuộc Liên hiệp quốc) lên án một ngày sau khi xảy ra vụ việc trên.
Dù vậy, một số dư luận trong giới quan sát độc lập và cả “không tự do” ở Việt Nam lại cho rằng không loại trừ khả năng đã có sự can thiệp vừa thầm lặng vừa thô lỗ của một thế lực đang tồn tại ngay trong lòng đảng và nhà nước cầm quyền – nhóm những người mà có thể bởi những nguyên do đủ tế nhị và không thiếu phức hợp về chính trị đối nội lẫn nỗi ám ảnh tốt đẹp khôn nguôi từ một chính thể phương Bắc, đã thường tìm cách dập tắt tiếng nói của nhóm người đang mong muốn một tinh thần xích lại hơn nữa với phương Tây. Thậm chí trong nhận thức của “nhóm người phương Bắc”, một thứ định chế như Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) là không cần thiết hoặc phải bị ngăn cản.
Vụ việc ngăn cản việc xuất cảnh đối với tôi lại xảy ra ngay trước thềm cuộc Kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền Việt Nam (UPR) diễn ra tại Genève vào ngày 5/2/2014. Bên lề UPR, tôi được tổ chức UN Watch mời với tư cách diễn giả và đóng góp tham luận – hoạt động được xem như một trong những cơ sở để Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc xem xét bản báo cáo “thực hiện đến 80% yêu cầu về nhân quyền của Liên hiệp quốc” do Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh tuyên bố, cũng như những biện giải “luôn chăm lo và bảo đảm quyền con người” do Nhà nước Việt Nam tuyên ngôn.
Dưới đây là những nội dung chính của Thư khiếu nại này:
I. Bất chấp những vận động nhiệt tình và thiện ý của Văn phòng Cao ủy nhân quyền Liên hiệp quốc, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế đối với Bộ Ngoại giao Việt Nam, chuyến đi Genève của tôi vào ngày 1/2/2014 từ sân bay Tân Sơn Nhất đã bị Cục quản lý xuất nhập cảnh thuộc Bộ Công an và cơ quan an ninh thuộc Công an TP. Hồ Chí Minh ngăn chặn, đồng thời lập biên bản thu giữ hộ chiếu của tôi.
Dù với lý do “kiểm tra nhân thân trên hộ chiếu”, song các sĩ quan an ninh cửa khẩu sân bay lại ngay lập tức dùng vũ lực tước máy điện thoại di động của tôi. Sau đó, trong một phòng cách ly, một sĩ quan an ninh mặc thường phục tự giới thiệu là Đức, cán bộ của Phòng PA81 thuộc Công an TP.HCM đã thông báo miệng với tôi rằng tôi không được xuất cảnh vì “hội thảo ở Thụy Sĩ bị các thế lực thù địch lợi dụng nhằm xuyên tạc và nói xấu nhà nước Việt Nam”.
Tôi đã kinh ngạc với bản thông báo miệng như trên. Tôi thật sự nghi ngờ về việc viên sĩ quan an ninh này không biết đến sự kiện Nhà nước Việt Nam vừa được chấp thuận tham gia vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc với tỷ lệ phiếu thuận áp đảo đến 96% – như một quốc gia được cộng đồng tiến bộ trên thế giới kỳ vọng gần như tuyệt đối vào điều được coi là “lòng thành chính trị”.
Trước hành động ngăn cản vô lý của cơ quan an ninh, tôi cũng không thể rũ bỏ được tâm trạng nghi vấn về điều được coi là “không giả dối” liên quan đến 14 điều cam kết mà Nhà nước Việt Nam đã nêu ra trước Đại hội đồng Liên hiệp quốc vào tháng 8/2013 và công cuộc UPR đầu tháng 2/2014.
Một trong những yêu cầu chủ chốt của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc đối với UPR nhân quyền Việt Nam lại là sự tham gia của xã hội dân sự, và Liên hiệp quốc hoàn toàn khuyến khích các nhóm dân sự và các cá nhân Việt Nam như tôi tham dự cuộc kiểm điểm mang tính thành thực mà không phải là giả dối này.
Nhưng thực tế về quyền xuất cảnh ở Việt Nam lại quá dị biệt với những lời cam kết của nhà nước này về quyền đi lại công dân. Vào giữa tháng Giêng năm 2014, một blogger ở TP. Hồ Chí Minh là Thành Nguyễn đã bị cơ quan an ninh cửa khẩu ngăn chặn chuyến bay tới Mỹ, dù blogger này đã được tòa lãnh sự Hoa Kỳ cấp visa. Theo blogger Thành Nguyễn, phía cơ quan an ninh chỉ đưa ra một lý do rất mơ hồ trong việc ngăn chặn là “bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội’.
Theo thống kê sơ bộ của giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, từ đầu năm 2013 đến nay đã có khoảng 10 trường hợp cá nhân bị ngăn chặn xuất cảnh tại các cửa khẩu, tương tự vụ việc của tôi.
Cũng có thông tin trong giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam cho biết hiện đang tồn tại một danh sách lên đến khoảng 2,000 người bị cơ quan an ninh cấm xuất cảnh, trong đó nhiều trường hợp bị ngăn chặn thuộc về các cựu tù nhân lương tâm và những người bất đồng chính kiến.
Ngày 3/2/2014, Hội những người bị cấm xuất cảnh đã được thành lập với tư cách một nhóm phản biện độc lập ở Việt Nam. Bản danh sách chưa đầy đủ mà hội này cung cấp cho thấy có ít nhất 40 người mà vì lý do chính trị và bất đồng chính kiến đã bị cơ quan an ninh Việt Nam không cho xuất cảnh hoặc bị thu giữ hộ chiếu…
II. Ngay trước thềm UPR diễn ra ngày 5/2/2014 tại Thụy Sĩ, hành động các cơ quan an ninh Việt Nam ngăn chặn việc xuất cảnh đối với tôi đã vi phạm nghiêm trọng quyền tự do đi lại của công dân – được ghi nhận tại điều 12 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã tham gia từ năm 1982; vi phạm nghiêm trọng Điều 23 của Hiến pháp Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/1/2014 mà theo đó “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Với tư cách một công dân, tôi không vi phạm bất cứ quy định nào về pháp luật xuất nhập cảnh ở Việt Nam. Trong khi biên bản của Công an cửa khẩu Tân Sơn Nhất cho rằng “phát hiện ông Phạm Chí Dũng là người chưa được xuất cảnh theo đề nghị của Công an thành phố Hồ Chí Minh”, tôi lại chưa từng được cơ quan an ninh TP.HCM thông báo về cá nhân tôi không được xuất cảnh.
Ngược với Biên bản số 166/BB-A72-TSN ngày 1/2/2014 của Công an cửa khẩu Tân Sơn Nhất viện ra đề nghị của Công an thành phố Hồ Chí Minh không cho tôi xuất cảnh dựa vào Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/7/2007 của Chính phủ, tôi không hề vi phạm bất kỳ nội dung nào thuộc Điều 21 của Nghị định 136/2007/NĐ-CP, theo đó: “Công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
1. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm.
2. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự.
3. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế; đang chờ để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế.
4. Đang có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài chính trừ trường hợp có đặt tiền, đặt tài sản hoặc có biện pháp bảo đảm khác để thực hiện nghĩa vụ đó.
5. Vì lý do ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm lây lan.
6. Vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
7. Có hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập cảnh theo quy định của Chính phủ”.
Từ mộc góc nhìn khác, Điểm 3 của Điều 12 của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị nêu rõ các quyền này sẽ “không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận”. Còn Điều 12 của Hiến pháp quy định “Nước cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam … tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…”.
Như thế, những sự hạn chế quyền tự do đi lại phải do luật định, mà Nghị định 136/2007/NĐ-CP không phải là luật và không thể viện dẫn nghị định này để cản trở tôi hay bất cứ công dân khác nào xuất cảnh.
Ngay giả như có thể áp dụng Nghị định 136/2007/NĐ-CP thì hành động ngăn cản tôi xuất cảnh cũng đã vi phạm thủ tục của chính nghị định đó. Khoản 1 của Điều 22 nghị định trên quy định thẩm quyền quyết định chưa cho công dân xuất cảnh như sau: chỉ có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án hay cơ quan thi hành án có thể quyết định chưa cho xuất cảnh theo các khoản 1, 2 và 3 của Điều 21; Bộ trưởng và chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định chưa cho xuất cảnh theo khoản 4 Điều 21; Bộ trưởng Bộ Y tế theo khoản 5; Bộ trưởng Bộ Công an theo khoản 6; và Thủ trưởng cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an quyết định chưa cho xuất cảnh đối với những người nêu tại khoản 7 của Điều 21.
“Đề nghị của công an thành phố Hồ Chí Minh” như được viện dẫn trong biên bản 166/BB-A72-TSN (đã nêu trên) không phải là quyết định của Công an thành phố Hồ Chí Minh (trong trường hợp này Công an thành phố Hồ Chí Minh cũng không có thẩm quyền ấy mà chỉ Bộ trưởng Bộ công an mới có thẩm quyền). Thế nhưng người ký quyết định chưa cho xuất cảnh trong biên bản trên lại là Thượng tá Phạm Quốc Hùng, Phó trưởng đồn công an của khẩu Tân Sơn Nhất. Do vậy, quyết định nêu trong biên bản 166/BB-A72-TSN là một quyết định hành chính hoàn toàn trái pháp luật.
III. Hành động ngăn chặn xuất cảnh đối với những người như tôi đã làm xấu đi rất nhiều hình ảnh của Nhà nước Việt Nam trong con mắt cộng đồng quốc tế, chứng minh không thể sinh động và cập nhật hơn về việc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – một thành viên vừa được bầu của Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp quốc – lại vừa ngang nhiên vi phạm các cam kết về nhân quyền của Liên hiệp quốc, vi phạm Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, đồng thời vi phạm hiến pháp của chính nhà nước này.
Trong trường hợp này, tôi hoàn toàn có quyền và có thể kiện Công an thành phố Hồ Chí Minh đã phạm pháp vì không cho tôi xuất cảnh. Tôi cũng hoàn toàn có quyền và có thể kiện Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra trước Hội đồng Nhân quyền (HRC) của Liên Hiệp Quốc về sự vi phạm này, tương tự như các vụ Peltonen kiện nhà nước Phần Lan (mã số 4922/92) hay vụ Celepli kiện nhà nước Thụy Điển (mã số 456/91)…
Cũng trong trường hợp này, tôi sẽ yêu cầu HRC xem xét nghiêm minh, yêu cầu Chính phủ Việt Nam nghiêm trị hành vi phạm pháp, tôn trọng công ước quốc tế, tôn trọng hiến pháp của chính nhà nước này và có những biện pháp thích đáng để không xảy ra những vụ phạm pháp tương tự với mọi công dân Việt Nam.
Vụ việc ngăn chặn xuất cảnh đối với tôi lại lồng trong khung cảnh nhiều chủ đề về quyền con người ở Việt Nam về dân sinh, dân quyền và chính trị vẫn còn thụt lùi sâu sắc, bất chấp rất nhiều hứa hẹn “sẽ cải thiện” từ phía một nhà nước Việt Nam đương đại luôn tuyên xưng “của dân, do dân và vì dân”.
Việt Nam đương đại ấy vừa chợt lóe chút hy vọng bởi bản thông điệp đầu năm của Thủ tướng chính phủ với 20 lần từ “dân chủ” được viện dẫn, cùng các khái niệm mang chỉ dấu cải cách nhất thời như “đổi mới thể chế”, “xóa độc quyền”, và đặc biệt là cụm từ “nắm chắc ngọn cờ dân chủ” và “người dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”.
Nếu những gì được xem là “thành tâm chính trị” cần và phải được thể hiện đúng thời điểm và không còn cơ hội cho sự chậm trễ, thái độ đó cần phải bứt phá và vượt bỏ những rào cản bảo thủ và cực đoan, không để bất cứ một thế lực nào tìm cách ngăn trở con đường dân tộc Việt Nam hội nhập toàn vẹn với thế giới, đặc biệt hòa nhập và hòa giải về các quyền con người.
Hôm nay 5/2/2014, đúng vào ngày cuộc UPR về nhân quyền Việt Nam diễn ra ở Genève, tôi chính thức viết “Thư khiếu nại về ngăn chặn công dân Phạm Chí Dũng xuất cảnh” gửi đến Ngài Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng chính phủ cùng các cơ quan liên quan là Bộ Ngoại giao và Bộ Công an Việt Nam.
Trên căn bản Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 14 điều cam kết của Nhà nước Việt Nam trước Đại hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, tư cách thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc của Nhà nước Việt Nam, Hiến pháp và các văn bản liên quan của Việt Nam về xuất nhập cảnh, tôi đề nghị cá nhân tôi và những trường hợp như tôi phải được Nhà nước Việt Nam giải quyết thủ tục xuất cảnh và nhập cảnh một cách tôn trọng theo các quyền công dân, không bị sách nhiễu hoặc bị xúc phạm bởi bất cứ một hành vi tùy tiện hoặc trái pháp luật nào từ bất cứ cơ quan quản lý nào.
Ngày 5 tháng 2 năm 2014
Phạm Chí Dũng
Nhà báo độc lập
Địa chỉ: 298/4 Nguyễn Trọng Tuyển, Phường 1, quận Tân Bình, TP.HCM





Bản Tin                                                         






‘Điều 79 và 88 được áp dụng tùy tiện’

Cập nhật: 14:44 GMT - thứ ba, 4 tháng 2, 2014
Phát biểu tại Geneva, luật sư Hà Huy Sơn bày tỏ quan ngại về cách áp dụng các điều luật 79 và 88 trong Bộ Luật Hình sự (BLHS) và nói ông từng bị đe dọa.
Tham dự buổi Hội thảo về Trách nhiệm của Việt Nam trong Vai trò Thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ vào hôm 04/02/2013, Luật sư Sơn nói về những khó khăn khi đại diện cho những thân chủ trước tòa tại Việt Nam.
“Vai trò luật sư của tôi là rất hạn chế. Điều 79 và 88 hạn chế quyền bảo vệ cho người bị bắt. Không có ai tôi đại diện pháp l‎‎‎ý được tuyên vô tội.
“Một số trường hợp được trả tự do ngay tại tòa nhưng vẫn chịu án tù treo hoặc bị quản chế, hoặc bị tước đoạt một số quyền công dân.
“Theo thực tế của Việt Nam thì Hiến pháp mới năm 2013 cho rằng quyền lực nhà nước là thống nhất, kể như lập pháp, tư pháp và hành pháp không độc lập.
“Do đó các ý kiến của luật sư và người bị bắt không được xem xét khách quan và tòa khó có cơ sở độc lập với các bị cáo, " luật sư Sơn nói.
"Chủ quan và tùy tiện"
"Nội dung hai điều 79 và 88 qui định không cụ thể và rõ ràng và công dân Việt Nam rất khó xác định gianh giới đâu là quyền của công dân và đâu là hành vi bị nhà nước cấm"
Luật sư Sơn cũng bình luận về việc hạn chế theo dõi phiên tòa xử những thân chủ của ông.
“Đối với các phiên tòa xét xử tội 79 và 88 nói xét xử là công khai nhưng thực tế là xét xử kín và người thân trong nhiều trường hợp không được dự phiên tòa.
“Nội dung hai điều 79 và 88 qui định không cụ thể và rõ ràng và công dân Việt Nam rất khó xác định gianh giới đâu là quyền của công dân và đâu là hành vi bị nhà nước cấm.
“Vì thực tế như thế nên các cơ quan tiến hành tố tụng dễ áp dụng hai điều này chủ quan và tùy tiện. Hai điều này hạn chế quyền công dân do chính Hiến Pháp Việt Nam qui định.
"Tại các phiên tòa các ý kiến bị cáo và luật sư không được hội đồng xét xử thường không chú ý quan điểm của họ và thường đồng tình với quan điểm của Viện Kiểm sát," luật sư Sơn nói.
“Bị đe dọa”
"Đôi khi tôi bị bắt lỗi và nhắc nhở và gây khó khăn cá nhân. Khi làm các vụ án cũng có nhận các cuộc điện thoại, tin nhắn đe dọa."
Luật sư Hà Huy Sơn cũng mô tả về điều ông gọi là “không thực hiện được đầy đủ được quyền luật sư qui định theo pháp luật.”
“Đôi khi tôi bị bắt lỗi và nhắc nhở và gây khó khăn cá nhân. Khi làm các vụ án cũng có nhận các cuộc điện thoại, tin nhắn đe dọa.
“Tôi không thể xác minh được thủ phạm là ai và không có chứng cứ để trình báo cơ quan nhà nước bảo vệ mình.
“Khi bảo vệ những bị cáo bắt vì điều 79 và 88 thì tôi bị xã hội xa lánh vì khi tiếp xúc với các luật sư như chúng tôi thì họ sợ bị ảnh hưởng.
“Những người có quyền lợi từ bộ máy nhà nước và các khách hàng có nhu cầu về tư vấn pháp luật cũng e ngại vì nếu tôi làm luật sư thì họ sẽ không được đối xử công bằng.
Trả lời câu hỏi rằng ông đã chuẩn bị tinh thần khi quay trở về Việt Nam sau sự kiện tại Geneva, luật sư Sơn nói:
“Việc tôi có sự hiện diện tại đây đã có sự quan tâm của chính quyền và tôi cũng đã nói với họ rằng tôi sang đây và sẽ nói về những thực tế về pháp luật Việt Nam và về thực tế nghề nghiệp của mình đã trải qua.
“Tôi hy vọng qua sự tiếp xúc sẽ có những điều tốt hơn với nghề nghiệp của tôi và nếu có thể tôi mong muốn có những điều tốt hơn cho đất nước Việt Nam.”
Ông Hà Huy Sơn là luật sư từng có thời gian thực tập và làm việc tại Văn phòng Luật sư Cù Huy Hà Vũ và từng bảo vệ cho nhiều nhân vật bị cáo buộc các tội theo Điều 88 và Điều 79 Bộ Luật Hình sự.
Vào tháng 11 năm 2013, luật sư Sơn Bấmgửi thư phản đối việc ông không được tham gia Đại hội Đoàn Luật sư Hà Nội.
Thư của LS Sơn viết: "Tôi cực lực phản đối hành vi xúc phạm danh dự, xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội nhiệm kỳ VIII".
"Tôi yêu cầu Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội xin lỗi công khai."

Thêm về tin này



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét